Đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển

Bác Hồ với đồng bào các dân tộc
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc

Ðất nước ta có nhiều vùng đa dân tộc, trải dài từ Hà Giang cực bắc của Tổ quốc đến tận mũi Cà Mau, mỗi vùng đều có vị trí quan trọng và những sắc thái riêng. Trong đó, Tây Nguyên là một trong những địa bàn quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng của đất nước.

Với tiềm năng to lớn về nguồn tài nguyên thiên nhiên với những thế mạnh phong phú của rừng, của cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi gia súc lớn, của công nghiệp khai khoáng, công nghiệp điện, nhất là thủy điện, hứa hẹn triển vọng tươi sáng của một vùng trọng điểm phát triển kinh tế của đất nước ta trên con đường CNH, HÐH.

Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ gửi Thư cho Ðại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại Plây Cu (19-4-1946 - 19-4-2006), Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam tổ  chức Ðại hội Ðại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên cũng tại TP Plây Cu (Gia Lai). Báo Nhân Dân xin giới thiệu một số bài viết chung quanh vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn Tây Nguyên.

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, góp phần to lớn vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến cứu nước, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Tên tuổi của những người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên như Nơ Trang Long, Ðinh Núp,... mãi mãi gắn liền với lịch sử vẻ vang đoàn kết đấu tranh anh dũng của cả dân tộc ta, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì quyền bình đẳng và hạnh phúc của các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam.

Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã đóng góp bao công sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước 20 năm qua.

Phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất, anh hùng của Tây Nguyên trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm năm xưa, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đoàn kết một lòng quyết tâm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, cùng nhân dân cả nước phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Người dân Tây Nguyên ngày nay đang thực hiện một cuộc đổi thay rõ rệt về đời sống vật chất và tinh thần cả về chiều rộng và chiều sâu. Cho dù những kẻ xấu có ra sức xuyên tạc sự thật, thì cũng không thể phủ nhận được sự phát triển to lớn đó. Các công trình và cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội được xây dựng ngày càng nhiều; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên được cải thiện từng bước.

Từ rất sớm, Ðảng ta đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề dân tộc, dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Ðảng ta đã đề ra các chủ trương chính sách dân tộc với nội dung cơ bản là: Bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác dân tộc nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.

Do sớm thấy được vị trí quan trọng và ý nghĩa chiến lược của địa bàn Tây Nguyên, từ đầu năm 1946, Ban vận động Quốc dân thiểu số và các Phòng Quốc dân miền núi của các tỉnh khu V (Nam Trung Bộ cũ) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy đã tổ chức thành công Ðại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại Plây Cu (Gia Lai) vào ngày 19-4-1946.

Tham dự Ðại hội này có hơn 400 đại biểu các dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và quan tâm theo dõi Ðại hội, Người đã gửi tới Ðại hội bức thư thắm thiết, kêu gọi các dân tộc đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tư tưởng xuyên suốt nổi bật trong bức thư lịch sử của Người là tư tưởng bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống cộng đồng các dân tộc. Người khẳng định, các dân tộc thiểu số "đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt", không có sự kỳ thị dân tộc, không có dân tộc lớn, dân tộc cực đoan, mọi dân tộc đều bình đẳng, "trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc". Vì là anh em ruột thịt, nên các dân tộc phải đoàn kết theo tinh thần "sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau", phải "thương yêu nhau", sự đoàn kết ấy phải thể hiện bằng hành động theo tinh thần "no đói giúp nhau", "phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta". Tình đoàn kết dân tộc đó là bền vững, lâu dài chứ không phải nhất thời, dù cho "sông có thể cạn, núi có thể mòn".

Trong thư, Người còn nêu một tư tưởng lớn về chính sách dân tộc, đó là phải "kính trọng nhau". Chỉ có kính trọng nhau mới có thể thực hiện sự bình đẳng dân tộc, mới thật lòng đoàn kết, mới ra sức giúp nhau cùng tiến bộ, mới loại bỏ được mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc lớn, mọi sai lầm về kỳ thị dân tộc. Vì tôn trọng dân tộc thiểu số, mà "tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào".

Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong thư là nền tảng tư tưởng các chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ cho đến ngày nay, khi nhân dân ta đang xây dựng CNXH. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/T.Ư ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi nói chung và Tây Nguyên nói riêng đã có những chuyển biến quan trọng.

Hiến pháp Nhà nước ta đã xác định rõ quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực. Tình đoàn kết giữa hơn 40 dân tộc ở Tây Nguyên đã không ngừng được củng cố. Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Quyết định 168/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc định hướng lâu dài và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, thì hàng loạt chủ trương, chính sách, chương trình, dự án đã được ban hành và thực hiện, làm cho bộ mặt Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi lớn lao. Hàng trăm tỷ đồng được huy động từ các chương trình dự án đầu tư cho các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn, để xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ðến nay, hơn 95% số xã đã có điện, 100% số xã đã có trạm bưu điện, điện thoại, các huyện đều có trường phổ thông dân tộc nội trú xây kiên cố.

Chính sách hỗ trợ các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, chính sách trợ giá, trợ cước, công tác xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, y tế... đã được quan tâm tổ chức thực hiện. Năm 2000, tỷ lệ hộ đói nghèo là 24,9%, nhưng đến tháng 12-2004, đã giảm còn 13,69%. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và cuộc vận động "Ngày vì người nghèo" đã được thực hiện sâu rộng, thiết thực góp phần củng cố và phát huy truyền thống đoàn kết cộng đồng ở mọi thôn, buôn, làng và nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào.

Từ nhiều năm qua, đồng bào Kinh và dân tộc thiểu số từ nhiều tỉnh trong cả nước đã chuyển đến làm ăn, sinh sống ở Tây Nguyên. Ða số đồng bào di chuyển đến, dù đi theo tổ chức hay đi tự do, đều đã được chính quyền các cấp tạo điều kiện để nhanh chóng ổn định đời sống. Dân số vùng Tây Nguyên ngày một tăng lên, cơ cấu dân cư cũng ngày càng phong phú, đa dạng hơn, mang lại cho khối đoàn kết nhân dân Tây Nguyên những nhân tố mới, đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề cần giải quyết.

Quá trình giải quyết những vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa đồng bào địa phương và đồng bào di cư đến là quá trình không ngừng củng cố khối đoàn kết toàn dân, gạt bỏ mọi mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đấu tranh chống lại mọi âm mưu chia rẽ của những kẻ xấu, mọi sự xuyên tạc, lôi kéo, dụ dỗ phá vỡ khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta. Những thành tựu phát triển kinh tế - văn hóa ở Tây Nguyên phụ thuộc vào sự ổn định xã hội và sự củng cố khối đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, không phân biệt người dân tại chỗ hay người di cư từ các nơi khác đến. Chính do truyền thống đoàn kết gắn bó của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, mà những năm qua chúng ta đã lần lượt đẩy lùi những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định xã hội.

Trong quá trình phát triển, trình độ dân trí của đồng bào Tây Nguyên được nâng lên rõ rệt, sự nghiệp giáo dục quốc dân ở Tây Nguyên đã có sự phát triển nhanh chóng. Cơ sở vật chất của ngành giáo dục - đào tạo được tăng cường, 30% vốn của Chương trình 135 đã được dành để xây dựng trường học ở các xã đặc biệt khó khăn.

Các tỉnh Tây Nguyên đã có chính sách thu hút giáo viên đến dạy học ở các xã khó khăn, chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ không thu tiền sách giáo khoa, giấy vở cho học sinh nghèo, đã tạo điều kiện cho các tỉnh hoàn thành việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và tiến tới phổ cập giáo dục THCS. Nhiều con em dân tộc thiểu số đã được cử tuyển vào các trường đại học. Học sinh người dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trong đó có Trường đại học Tây Nguyên, là nguồn cán bộ khoa học, cán bộ quản lý cho các tỉnh. Ðã có không ít những cán bộ kỹ thuật, chuyên gia công nghệ, bác sĩ, nhà giáo, nhà nghiên cứu là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang làm việc tại chỗ hay ở các nơi khác. Ðặc biệt, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú đến các huyện, các xã đóng vai trò rất tích cực nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nhân lực người thiểu số để xây dựng quê hương. Nhờ cố gắng phát triển giáo dục tại chỗ, đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã từng bước thực hiện quyền bình đẳng trong hưởng thụ giáo dục quốc dân, niềm mơ ước của Tây Nguyên trong những thời kỳ nghèo đói và thất học xưa kia.

Bản sắc văn hóa dân tộc ở Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng. Các dân tộc Tây Nguyên đã không ngừng đoàn kết gìn giữ truyền thống văn hóa của mình, nét đẹp văn hóa dân tộc được sưu tầm và phát huy, các di tích lịch sử được trùng tu, tôn tạo. Văn hóa cồng chiêng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, đó là niềm tự hào của các dân tộc Tây Nguyên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam. Các thiết chế văn hóa được quan tâm củng cố. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng. Chính phủ đã có chính sách ưu tiên không thu tiền 18 loại báo, tạp chí cho các xã đặc biệt khó khăn, nhằm kịp thời cung cấp thông tin, chuyển tải chủ trương, chính sách, pháp luật đến đồng bào, nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng cho người dân nơi đây.

Những thành  tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đạt được trong những năm qua là kết quả của việc thực hiện chủ trương bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, người tại chỗ hay người ở nơi khác đến. Tây Nguyên phát triển trong lòng cộng đồng cả nước, vừa đóng góp cho cả nước trong công cuộc đổi mới, vừa nhận được sự chi viện sức người, sức của của cả nước. Sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ không chỉ diễn ra trong nội bộ các dân tộc Tây Nguyên, mà còn là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa Tây Nguyên với cả nước. Nhờ thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc Tây Nguyên mà có thể gắn bó Tây Nguyên với cả nước, ngược lại nhờ thực hiện tốt bình đẳng, đoàn kết, tương trợ với cả nước, mà khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Tây Nguyên được củng cố và phát triển không ngừng.

Tuy nhiên, những gì đạt được trong việc xây dựng khối đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên mặc dù rất lớn, rất cố gắng, song chúng ta không thể thỏa mãn. Ðể thật sự làm cho chính sách dân tộc đạt được yêu cầu của đồng bào các dân tộc, chúng ta còn phải làm rất nhiều việc, vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách. Kinh tế Tây Nguyên tuy có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ tăng bình quân hằng năm của cả nước (9 - 12%), nhưng đây vẫn là một trong những vùng khó khăn, trình độ sản xuất nói chung còn lạc hậu, nhiều vấn đề xã hội bức xúc còn nổi cộm, những nhân tố gây mất ổn định xã hội, đe dọa khối đoàn kết dân tộc vẫn luôn luôn rình rập, những tàn tích của một nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc còn nhiều ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hàng hóa, đời sống vật chất và tinh thần của không ít đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Năm nay, kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư cho Ðại hội các dân tộc thiểu số miền nam (1946 - 2006) - một sự kiện chính trị quan trọng, bằng hành động thiết thực, chúng ta nguyện trung thành và làm theo lời dạy của Người, biến những tư tưởng của Người nêu trong bức thư lịch sử nói trên thành hiện thực cuộc sống. Ðể thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển, cần tiếp tục đổi mới tư duy về công tác dân tộc của Ðảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và với Tây Nguyên nói riêng.

Tiền đề và điều kiện để thực hiện điều đó phải là ý thức thật sự "kính trọng" các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, nhận thức vị trí Tây Nguyên với tất cả chiều sâu của truyền thống lịch sử, văn hóa và tiềm năng tinh thần, vật chất to lớn của vùng này trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HÐH, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tây Nguyên chỉ có thể phát triển được ở trong lòng dân tộc với tinh thần cả nước với Tây Nguyên, Tây Nguyên vì cả nước, để cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên thật sự là một bộ phận gắn bó hữu cơ với cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ðây là quan điểm tư tưởng quan trọng trong Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được quán triệt sâu sắc.

Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng, Nhà nước, mọi hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân cần thấm nhuần sâu sắc tinh thần ấy để làm cho sự bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ trở thành hiện thực trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào các dân  thiểu số Tây Nguyên. MTTQ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động, làm cho tinh thần ấy lan tỏa đến tận mỗi buôn làng, mỗi gia đình.

Từ mùa Xuân năm Bính Tuất 1946, Bác Hồ gửi Thư cho Ðại hội các dân tộc thiểu số miền nam đến nay tròn 60 năm. Vào mùa Xuân Bính Tuất này - năm 2006, Ðại hội Ðại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên lại được tổ chức tại Plây Cu (Gia Lai). Ðây là sự kiện quan trọng nhằm biểu dương sức mạnh đại đoàn kết của các dân tộc Tây Nguyên, khẳng định tính đúng đắn và nhất quán về các chủ trương và chính sách của Ðảng, Nhà nước ta, thể hiện niềm tin và ý chí của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tiếp tục phát huy tinh thần đại đoàn kết, chung sức, chung lòng giữ vững ổn định chính trị, xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, vững mạnh, hòa nhịp cùng bước tiến của đất nước.

Có thể bạn quan tâm