Sau một năm thực hiện Luật Quản lý thuế

Ðề cao vai trò của doanh nghiệp trong việc tự khai tự nộp thuế

Những kết quả bước đầu

Theo Tổng cục Thuế, tám tháng qua, tổng thu nội địa của cả nước đạt 80% dự toán pháp lệnh cả năm. Việc triển khai thành công Luật Quản lý thuế (QLT) trong một năm qua có đóng góp không nhỏ vào kết quả thu nội địa này. Bên cạnh đó, với việc xác định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp thuế (NNT), qua cơ chế doanh nghiệp (DN) tự tính - tự khai - tự nộp thuế, Luật QLT đã tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng để nâng cao ý thức của người dân trong xã hội về việc chấp hành nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước (NSNN).

Các tổ chức, cá nhân đã chủ động hơn với việc nộp thuế của mình, theo đó tờ khai thuế được nộp kịp thời hơn so với trước, các nội dung ghi trong tờ khai cụ thể rõ ràng hơn, tính chính xác của các số liệu trong hồ sơ khai thuế cao hơn trước. Số liệu cuối năm 2007 so với thời điểm ngày 1-7-2007 tỷ lệ các tờ khai thuế GTGT chưa nộp, quá hạn và lỗi giảm là 27%, 65% và 32%; các tờ khai khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp... tỷ lệ tờ khai quá hạn bình quân đã giảm đáng kể. Sau khi trực tiếp được đối chiếu số liệu của mình ở bộ phận hỗ trợ hoặc qua điểm cung cấp thông tin  được đặt công khai tại cơ quan thuế, NNT đã chủ động đến cơ quan thuế để đối chiếu công nợ và nộp các khoản nợ đọng, nhờ đó số nợ đọng về thuế đã có sự chuyển biến tích cực.

Với nội bộ ngành thuế, việc áp  dụng Luật QLT đã tạo điều kiện để cơ quan QLT các cấp được tổ chức lại theo mô hình quản lý theo chức năng. Theo đó, về thanh tra thuế, đã dựa trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin, đánh giá mức độ tuân thủ và xác định rủi ro phân loại doanh nghiệp để quyết định việc thanh tra thuế đối với từng trường hợp có vi phạm pháp luật thuế hoặc có rủi ro về thuế. Việc thực hiện thanh tra theo quy định của Luật QLT vừa tập trung được nguồn lực  để thực hiện  công tác thanh tra đúng đối tượng theo sự phân loại tốt, chưa tốt, dựa trên mức độ tuân thủ pháp luật, nhằm chống thất thu về thuế có hiệu quả hơn, và đặc biệt không làm phiền những trường hợp đã thực hiện tốt pháp luật thuế.

Ðối với chức năng quản lý nợ, trên cơ sở những điều chỉnh của Luật QLT, ngành thuế đã xây dựng bộ máy quản lý nợ từ trung ương đến địa phương góp phần phân tích được nguyên nhân nợ và tình trạng nợ trong toàn ngành, từ đó triển khai các biện pháp đồng bộ để xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới phát sinh, áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ. Nhờ đó, các khoản nợ ngân sách có xu hướng giảm dần. Tính đến ngày 31-12-2007, các khoản nợ ngân sách chỉ còn chiếm 3,2% tổng số thu NSNN và có xu hướng giảm tiếp trong tám tháng đầu năm 2008.

Nhằm đáp ứng nhu cầu của Luật QLT và mô hình tổ chức bộ máy mới, công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi trong toàn ngành thuế với 50 phần mềm ứng dụng dùng chung, mô hình mạng trực tuyến kết nối rộng toàn quốc gồm 700 mạng cục bộ... Ðến nay, toàn ngành đã trang bị số máy tính cá nhân đạt hơn 70% số cán bộ thuế. Việc triển khai hạ tầng truyền thông kết nối truyền dữ liệu giữa cục thuế với các chi cục thuế không chỉ đem lại hiệu quả cao trong việc kiểm soát chất lượng và tiết kiệm nhân lực lao động thủ công, mà còn giảm thiểu thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế, khai thác thông tin về chính sách, thủ tục thuế, để kịp thời phát hiện sai sót điều chỉnh.

Nhiều vướng mắc phát sinh

Tuy đã chuẩn bị khá tốt các điều kiện để triển khai thực hiện Luật QLT, nhưng những khó khăn, vướng mắc trong giai đoạn đầu thực hiện cơ chế quản lý thuế mới, đã nảy sinh. Ðội ngũ cán bộ công chức thuế, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở phần lớn chưa được đào tạo lại hoặc chưa nắm bắt kịp về kiến thức quản lý thuế mới nên bỡ ngỡ trong thời gian đầu triển khai thực hiện.

Cũng theo quy định của Luật QLT, chỉ có các chức danh, chuyên viên chính, kiểm soát viên chính mới được thực hiện thanh tra thuế. Tuy nhiên hiện nay các địa phương, số lượng chuyên viên chính, kiểm soát viên chính quá ít nên chưa đủ lực lượng để tổ chức các đoàn thanh tra thuế. Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế có nơi, có lúc còn gặp khó khăn như người nộp thuế vi phạm nhưng không để số dư tiền gửi ngân hàng, làm cho các biện pháp cưỡng chế như trích tiền gửi tại ngân hàng không thực hiện được; hoặc tình trạng mua bán sử dụng hóa đơn bất hợp pháp vẫn tồn tại, thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến. Ðối với người nộp thuế, đặc biệt là các hộ kinh doanh do kiến thức hạn chế, lại phân tán rộng trên địa bàn khác nhau nên việc tiếp cận theo phương thức quản lý thuế mới bước đầu còn nhiều khó khăn.

Ðể Luật QLT tiếp tục phát huy hiệu lực, hiệu quả trong cuộc sống và nhất là giải quyết ngay những vướng mắc tồn tại, trong thời gian tới, ngành thuế tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công tác hỗ trợ NNT, đặc biệt hỗ trợ về kiến thức nghiệp vụ thuế và nghiệp vụ kế toán cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp mới thành lập. Cán bộ công chức thuế tiếp tục được đào tạo và đào tạo lại các kỹ năng quản lý thuế mới, trong đó tập trung vào đội ngũ cán bộ thuế cấp cơ sở.

Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác quản lý thu hồi nợ, xử lý dứt điểm những tồn tại do cơ chế, chính sách cũ để lại, giảm thiểu nợ chây ỳ, đặc biệt tập trung thanh tra các đơn vị lớn, có rủi ro cao về thuế, cơ quan thuế các cấp phải nhanh chóng triển khai xây dựng kho dữ liệu thông tin về người nộp thuế, thông tin về quản lý thu thuế và thông tin liên quan từ các ngành khác để cung cấp nhanh chóng, kịp thời, chính xác, phục vụ công tác nghiệp vụ, quản lý và chỉ đạo điều hành.

Ngành thuế cũng cần tăng cường phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai thi hành Luật QLT, đồng thời tiếp tục hoàn thiện và ban hành các thông tư liên tịch về cung cấp và trao đổi thông tin giữa Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan. Ðây chính là các quy định pháp lý cụ thể về trách nhiệm của từng cơ quan nhằm đưa công tác quản lý thuế đi vào nền nếp, đáp ứng yêu cầu của Luật QLT.

Có thể bạn quan tâm