Trước ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, nhiều sĩ quan cao cấp trong ngụy quân và viên chức ngụy quyền Sài Gòn đã bỏ chạy ra nước ngoài. Vốn có thâm thù với cách mạng, lại được bọn đế quốc và phản động quốc tế giúp đỡ, nhiều tên đã đứng ra lập các tổ chức phản động lưu vong để xin viện trợ nước ngoài, tiến hành các hoạt động phá hoại, lật đổ chính quyền cách mạng, xóa bỏ chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau bốn năm liên tục đấu tranh với tổ chức phản động lưu vong do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu, lực lượng An ninh nhân dân đã thực hiện thắng lợi "kế hoạch CM 12", đập tan âm mưu của chúng đưa gián điệp biệt kích cùng vũ khí xâm nhập Việt Nam hòng gây bạo loạn và lật đổ chính quyền.
Qua công tác nắm tình hình, công an Việt Nam nắm được trong số các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài, có tổ chức "Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam" do Hoàng Cơ Minh cầm đầu.
Hoàng Cơ Minh vốn là Phó đô đốc hải quân ngụy. Sau ngày 30-4-1975, y sống lưu vong ở Mỹ. Ngày 30-4-1980, tại miền nam bang California, Hoàng Cơ Minh cùng một số sĩ quan trong quân đội Sài Gòn cũ lập ra "Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam" với sự tài trợ của tình báo Mỹ.
Ðể thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền ở Việt Nam, chúng vạch ra chương trình hoạt động gồm năm giai đoạn, kết thúc bằng việc đồng loạt nổi dậy lật đổ chính quyền cách mạng.
Từ năm 1981, Hoàng Cơ Minh lập căn cứ tại một điểm gần biên giới Thái-lan - Lào thuộc huyện Buntharích, tỉnh Uđon. Tại đây, chúng xây dựng bốn căn cứ và lập 14 tiền đồn chung quanh, gọi là "chiến khu quốc nội" của "kháng chiến quân" Hoàng Cơ Minh. Hoàng Cơ Minh đặt tổng hành dinh tại Băng-cốc. Y cho tay chân vào các trại tị nạn người Việt trên đất Thái tuyên truyền, dụ dỗ, lôi kéo, tuyển mộ người đưa về căn cứ để huấn luyện. Trong ba năm (1983 - 1985), chúng đã tuyển được 200 tên và lập thành bốn "Quyết đoàn" mang bí số 7684, 7685, 7686, 7687. Mỗi "Quyết đoàn" có khoảng 40 - 50 tên, dưới "Quyết đoàn" là "Dân đoàn", mỗi "Dân đoàn" có khoảng 12 - 15 tên.
Ngày 27-12-1983, Hoàng Cơ Minh đã lập ra một đài phát thanh tiếng Việt gọi là "Việt Nam kháng chiến", mỗi ngày phát năm lần. Từ tháng 11-1986, đài này đã chuyển sâu vào đất Thái-lan trước khi chúng tổ chức các cuộc hành quân xâm nhập Việt Nam. Chúng xuất bản tại Mỹ tờ báo Kháng chiến bằng tiếng Việt, và cho phát hành ở nhiều nước phương tây. Trong những năm 1982 - 1983, từ Mỹ, Canada, qua đường bưu điện quốc tế, chúng đã gửi rất nhiều tài liệu có nội dung phản động về các tỉnh phía nam nước ta, hòng tác động trong nhân dân và kích động bọn phản động trong nước nổi dậy chống đối chính quyền, chuẩn bị cho các cuộc xâm nhập của chúng về nước.
Thực hiện cuộc hành quân "Ðông Tiến I", sáng 15-5-1986, Dương Văn Tư, Tư lệnh lực lượng vũ trang chỉ huy toán thứ nhất gồm 51 tên xâm nhập Việt Nam. Ngày 19-9-1986, chúng vượt biên giới Campuchia vào nước ta thì bị bộ đội biên phòng Việt Nam (đồn 637) bắt bốn tên, bộ đội Lào và Campuchia bắt năm tên. Dương Văn Tư và số còn lại bị tiêu diệt. Cuộc hành quân "Ðông Tiến I" bị đập tan.
Ngày 1-12-1986, Hoàng Cơ Minh phát lệnh hành quân mang tên "Ðông Tiến II", và đích thân chỉ huy, huy động toàn bộ Bộ chỉ huy và 3 "Quyết đoàn" còn lại (khoảng 150 tên) xâm nhập Việt Nam qua biên giới Thái-lan - Lào. Khi chúng chuẩn bị vượt sông Mê Công thì bị bộ đội Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam bắn chặn dữ dội, buộc phải quay trở lại căn cứ.
Ðến ngày 7-7-1987, Hoàng Cơ Minh và đồng bọn tiếp tục thực hiện "Ðông Tiến II" (lần 2) xâm nhập Việt Nam. Mục tiêu của chúng là xâm nhập Tây Nguyên, xây dựng căn cứ rồi tung lực lượng ra các vùng khác, mở rộng địa bàn hoạt động.
Ðêm 11-7-1987, chúng đã vượt sông Mê Công vào đất Lào. Sau gần 20 ngày, chúng đã tiến gần đến biên giới Việt Nam. Nhưng chúng chưa kịp vào đất ta thì đã bị quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào bao vây, tiến công 15 trận. Trận đánh cuối cùng ngày 28-8, Hoàng Cơ Minh đã bỏ xác trong đám loạn quân. Ta đã đập tan cuộc hành quân "Ðông Tiến II" của chúng.
Ðến cuối năm 1987, lực lượng phản động Hoàng Cơ Minh cơ bản bị tan rã. Trong số 15 tên chạy sang đất Thái-lan có Ðào Bá Kế (tức Trần Quang Ðô). Thấy chủ tướng bị chết, y đã đứng ra tập hợp và chỉ huy số tàn quân, dời căn cứ vào sâu trong đất Thái-lan khoảng 20 km, tiếp tục tuyển mộ lực lượng, chuẩn bị thực hiện cuộc hành quân "Ðông Tiến III".
Ngày 22-8-1989, Ðô chỉ huy hai "Quyết đoàn" gồm 68 tên, tiến hành vũ trang xâm nhập Việt Nam, thực hiện cuộc hành quân "Ðông Tiến III". Chúng được trang bị bốn khẩu B40, 14 khẩu M72, 57 súng AK, sáu khẩu súng ngắn và rất nhiều phương tiện thông tin hiện đại.
Theo kế hoạch, chúng sẽ xâm nhập các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Ðà Nẵng, Gia Lai, Kon Tum để xây dựng các "căn cứ tạm". Sau đó phát triển lực lượng xuống đồng bằng sông Cửu Long, tiến hành phá hoại một số mục tiêu kinh tế quan trọng như nhà máy, cầu cống, đường xe lửa; thu thập tin tức gửi ra nước ngoài.
Vào đất Lào chưa được một tuần, chúng đã bị quân và dân Lào phát hiện, bị pháo kích và truy bắt, không liên lạc được với căn cứ. Do bị truy kích liên tục, lại bị đói, khát, nên ngày 19-9-1989, chúng buộc phải ra hàng.
Như vậy, quân và dân Lào phối hợp bộ đội tình nguyện và công an Việt Nam đã phát hiện, tiêu diệt và bắt những toán biệt kích khi chúng chưa kịp xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Số đối tượng bị bắt trong cả ba đợt đã bị đưa ra truy tố trước pháp luật và bị tòa án nhân dân xử phạt thích đáng.