Ðào tạo theo chương trình tiên tiến (CTTT) là bước đi quan trọng, góp phần tích cực, làm đổi mới cơ bản và toàn diện hệ thống giáo dục đại học, nhất là trên một lộ trình xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế ở nước ta. Tuy nhiên, qua thực tế thí điểm vài năm nay cho thấy, còn nhiều vấn đề cần khắc phục.
Lộ trình đã được đặt ra
Từ năm 2006, Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD và ÐT) đã triển khai thí điểm đào tạo mười CTTT tại chín trường đại học trong cả nước theo hướng ký cam kết với trường đại học tiên tiến của Hoa Kỳ về sử dụng chương trình đào tạo, tập huấn cho giáo viên và cán bộ quản lý của Việt Nam; cũng như việc đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất, cử giáo viên sang tham gia giảng dạy và giúp kiểm định chương trình.
GS, TS KH Bành Tiến Long, Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Ðào tạo, cho biết: Ðiểm khác biệt giữa CTTT với các chương trình tài năng, chất lượng cao và chương trình liên kết là: CTTT được nhập khẩu từ các trường đại học tiên tiến trên thế giới, gồm cả quy trình, kế hoạch đào tạo, quy định học cụ, quản lý đào tạo... và được giảng dạy bằng tiếng Anh. Mục tiêu cụ thể đặt ra với chương trình là triển khai đào tạo ít nhất 30 CTTT tại một số trường đại học hàng đầu Việt Nam. Trang bị cho sinh viên hệ thống kiến thức hiện đại, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng tự học, tự nghiên cứu và thích ứng cao với môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp.
Bộ GD và ÐT cũng mong muốn đến năm 2015, từ các CTTT đào tạo được khoảng 4.000 cử nhân, 600 thạc sĩ, tiến sĩ. Ngoài ra, CTTT được thực hiện sẽ tạo ra những đổi mới cơ bản về nội dung đào tạo, phương pháp dạy học, phương thức tổ chức và quản lý đào tạo, cách thức đánh giá, gắn kết đào tạo với kiến thức khoa học; là tiền đề phát triển các trường đại học thành các trung tâm học thuật, nghiên cứu đạt chuẩn khu vực và quốc tế; đến năm 2015, thu hút khoảng 3.000 sinh viên quốc tế học tập tại các CTTT ở trong nước.
Ðề án đào tạo theo CTTT cũng góp phần nâng cao trình độ của giảng viên cả về chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ, có khả năng tham gia giảng dạy, hợp tác nghiên cứu khoa học tại các trường đại học tiên tiến trên thế giới. Lộ trình mà ngành GD và ÐT đề ra là tăng cường năng lực nghiên cứu của các trường đại học, trước mắt tập trung nghiên cứu các đề tài trong lĩnh vực ngành đào tạo CTTT dần tiến tới thực hiện phối hợp nghiên cứu với các trường đại học nước ngoài và nhận đặt hàng các đề tài khoa học, cụ thể từ các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, thu hút đông đảo các nhà khoa học quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài cũng như các cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài về tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các trường đại học ở nước ta; đến năm 2015, ít nhất có 700 lượt cán bộ khoa học quốc tế đến giảng dạy và nghiên cứu các ngành đào tạo CTTT. Cũng đến năm 2015, bộ xác định sẽ góp phần trang bị cho các trường đại học các điều kiện bảo đảm chất lượng phục vụ việc giảng dạy và nghiên cứu theo tiêu chuẩn quốc tế, v.v.
Còn nhiều hạn chế
Mục tiêu và kỳ vọng đặt ra là vậy, tuy nhiên, sau ba năm triển khai đào tạo CTTT tại chín trường đại học trọng điểm, sau này mở rộng ra bốn trường khác, cho thấy phương pháp giảng dạy, quản lý và cả xây dựng chương trình còn nhiều bất cập. Kiểm tra việc thực hiện đào tạo CTTT tại các trường đang làm thí điểm như: Kinh tế Quốc dân, Bách khoa Hà Nội, Nông nghiệp 1, Khoa học Tự nhiên (ÐHQG Hà Nội), Bách khoa TP Hồ Chí Minh, v.v. cho thấy: Ðội ngũ giảng viên Việt Nam có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh ở các môn khoa học cơ bản còn thiếu. Thậm chí giáo án còn chưa chuẩn, phần lớn là giảng dạy bằng tiếng Việt. Thời gian giảng dạy của giảng viên nước ngoài ngắn; phần lớn các trường chỉ mời giảng viên dạy trong hai tuần, do đó sinh viên phải chịu sức ép về thời gian và khối lượng kiến thức.
Nhiều trường đại học gặp khó khăn về đội ngũ trợ giảng, đặc biệt là các môn khoa học cơ bản... Phương pháp giảng dạy của giảng viên và trợ giảng Việt Nam còn nặng về lý thuyết, đọc chép, phụ thuộc vào Slide trình chiếu. Giảng viên không giới thiệu cho sinh viên về bài giảng, không tóm tắt nội dung, học sinh không tiếp thu được bài...
Một sinh viên ÐH Bách khoa Hà Nội cho rằng: Ðây là chương trình nước ngoài dạy theo kiểu Việt Nam đọc - chép. Bên cạnh đó, sinh viên còn thiếu thông tin về chương trình đào tạo, khóa, lịch trình giảng dạy, giáo trình và tài liệu tham khảo; nhất là giáo trình, tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh còn thiếu về lượng bản, chưa đáp ứng nhu cầu của sinh viên... Phần lớn các cơ sở đào tạo chưa triển khai cho sinh viên đánh giá giảng viên; giảng viên chưa chủ động cho sinh viên đánh giá môn học.
Công tác chỉ đạo và tổ chức giảng dạy chưa hợp lý. Một số trường không có kế hoạch mời giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy các môn khoa học cơ bản; cho phép giảng dạy bằng tiếng Việt hoặc kết hợp tiếng Việt và tiếng Anh; thực hiện bài giảng môn cơ bản chung cho hai chương trình trong khi thiết kế là khác nhau.
Một vài trường đại học, số sinh viên có trình độ tiếng Anh hạn chế, bố trí thời lượng giảng dạy tiếng Anh cơ bản ngắn, sinh viên còn gặp khó khăn khi chuyển sang các môn học cơ bản và cơ sở.
Qua kiểm tra của Bộ GD và ÐT còn cho thấy: Ðến nay, Trường đại học Kinh tế Quốc dân hầu như chưa có giảng viên nước ngoài giảng dạy, kể cả tiếng Anh. Còn ở Trường đại học Cần Thơ, năm đầu một số giảng viên sử dụng Slide tiếng Anh và giảng dạy bằng tiếng Việt. Năm thứ hai các môn học đã được giảng bằng tiếng Anh nhưng đều do giảng viên Việt Nam giảng dạy, chưa có giảng viên nước ngoài.
Ðiều kiện về cơ sở vật chất cũng còn nhiều hạn chế, một vài trường chưa có phòng học ổn định; có chăng thì còn hẹp, tiếng ồn lớn. Ðáng chú ý, phòng học tiếng chưa có cát-sét, chưa có phòng máy tính nối mạng, phòng học nhóm, hệ thống mạng có đường truyền thấp, v.v. Tính hấp dẫn của một số ngành học chưa cao. Các ngành học như vật lý, hệ thống năng lượng, khoa học cây trồng đều có số sinh viên đăng ký vào học giảm hơn nhiều so với năm 2006.
Giải pháp khắc phục
Nhận biết và nắm bắt những bất cập, yếu kém, đồng thời tìm ra giải pháp khắc phục, đẩy nhanh lộ trình thực hiện đào tạo các CTTT trong nước là vấn đề mà gần đây Bộ GD và ÐT rốt ráo chỉ đạo các cơ sở đào tạo thực hiện. Trước mắt, việc giảng viên giảng dạy CTTT bằng tiếng Việt cần được giải quyết sớm, nếu không muốn nói là cần chấm dứt.
Theo đó, cần có kế hoạch mời giảng viên trong nước và nước ngoài có trình độ chuyên môn và giảng dạy bằng tiếng Anh thay cho giảng viên chưa có đủ năng lực tiếng Anh. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng GD và ÐT Nguyễn Thiện Nhân cũng nhấn mạnh: CTTT thì giảng viên cũng phải tiên tiến. Ngoài bằng cấp ra, phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên cũng hết sức quan trọng. Thời gian qua, việc chuẩn bị mời giảng viên tiên tiến chưa kỹ, chưa thống nhất yêu cầu giảng viên dạy CTTT phải có phương pháp như thế nào.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng đề nghị, ngay trong năm học mới, các trường cần đánh giá chất lượng giảng viên, nhất là ở trình độ tiếng Anh. Hiện tại, mới có sáu trường trong số chín trường thí điểm mời được giảng viên các trường đối tác giảng dạy. Bộ cũng yêu cầu các trường mỗi năm phải có 20 - 30% số môn học có giảng viên nước ngoài lên lớp.
Khắc phục khó khăn này, Trưởng khoa Hệ thống Thông tin (Ðại học Công nghệ Thông tin, ÐHQG TP Hồ Chí Minh) kiến nghị: Nên hình thành cộng đồng giảng viên nước ngoài cho CTTT để mỗi lần sang Việt Nam có thể giảng dạy cho nhiều trường, tiết kiệm được chi phí. Về chương trình, Bộ GD và ÐT cũng yêu cầu các trường có chương trình chuẩn. Việc lấy chương trình của nước ngoài cần có văn bản cho phép sử dụng rõ ràng thì mới được dùng - phải bảo đảm mỗi sinh viên có một bộ giáo trình.
Ngoài ra, cần có lộ trình mua sắm trang thiết bị dạy học trước một năm; rà soát lại các điều kiện khác theo chuẩn như thư viện, sổ sách, đầu sách, v.v. Các trường cần quản lý phần mềm theo hệ thống tín chỉ, đồng thời tăng cường hơn nữa hình thức sinh viên đánh giá giảng viên.
Phía các trường, đã không ít nơi đề nghị, Bộ GD và ÐT sớm có hướng dẫn về sử dụng kinh phí cho CTTT, tăng đầu tư cơ sở vật chất cho những năm đầu. Bộ nên cho phép các trường đặt mua giáo trình, tài liệu qua amazon.com để tiết kiệm lãng phí và chủ động đặt hàng, không nhất thiết qua các công ty xuất nhập khẩu sách bán như hiện nay, v.v.
Mười chương trình tiên tiến đào tạo tại các trường đại học 1. Công nghệ thông tin (Trường đại học Khoa học Tự nhiên, ÐHQG TP Hồ Chí Minh). 2. Toán học (Trường đại học Khoa học Tự nhiên, ÐHQG Hà Nội). 3. Vật lý (Trường đại học Sư phạm, ÐH Huế). 4. Ðiện tử viễn thông (Trường đại học Bách khoa, Ðại học Ðà Nẵng). 5. Cơ điện tử (Trường đại học Bách khoa Hà Nội). 6. Khoa học vật liệu (Trường đại học Bách khoa Hà Nội). 7. Hệ thống năng lượng (Trường đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh). 8. Khoa học cây trồng (Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội). 9. Công nghệ sinh học (Trường đại học Cần Thơ). 10. Tài chính (Trường đại học Kinh tế Quốc dân) |