Ðạo Phật và đại thắng mùa xuân 1975

LTS - Kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, ngày 20-4, tại TP Hồ Chí Minh đã diễn ra Hội thảo khoa học "Ðại thắng mùa Xuân 1975 - sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thời đại Hồ Chí Minh", do Bộ Quốc phòng và Thành ủy TP Hồ Chí Minh tổ chức.
Chúng tôi xin trích giới thiệu cùng bạn đọc bài tham luận của Hòa thượng Thích Trí Quảng - Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh, tại cuộc hội thảo nói trên.

Nói đến Ðại thắng mùa Xuân 1975 là nói đến sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người rất thân thương, gần gũi với dân tộc chúng ta. Người đã khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để đưa con thuyền Việt Nam đến bến bờ vinh quang là Ðại thắng mùa Xuân 1975.

Riêng đối với tăng ni và Phật tử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng luôn được tôn trọng quý kính. Sinh thời cố Hòa Thượng Thích Thiện Châu đã bày tỏ niềm trân quý với Người như sau: "Trong tôi, Bác Hồ là Bồ tát, là vị La hán, bởi vì Người đã dành tất cả cho mọi người, không giữ gì riêng cho mình cả. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ như đóa sen giữa rừng hoa dân tộc Việt Nam, hội tụ đức tài của đất nước" (Theo Báo Nhân Dân ngày 22-1-1997, tr.4).

... Ðức Phật hiện hữu trên cuộc đời này vì mục đích duy nhất là mang lại hạnh phúc cho số đông, mang lại an lạc cho chư Thiên và loài người. Vì vậy, các tu sĩ Phật giáo đi đến nơi nào cũng tiếp nối được thành quả tốt đẹp này của Ðức Phật là mang lại hạnh phúc cho số đông. Số đông nhằm nói tới giai cấp nông dân và công nhân. Hai giai cấp này chiếm hơn 80% dân số trên thế giới, nhưng họ lại phải cam chịu cuộc sống nghèo khổ, bất an và luôn luôn bị tầng lớp khác của xã hội thống trị. Cũng chính vì vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý chí cách mạng triệt để, chẳng những Người mưu cầu hạnh phúc, độc lập cho dân tộc chúng ta, mà Người còn tranh đấu cho tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột ở các nước thuộc địa khác. Cho nên Người được xem là đã phất ngọn cờ đầu tiên trên mặt trận giải phóng các dân tộc thuộc địa.

Riêng giới Phật giáo, trong suốt dòng lịch sử dài xa từ thời kỳ du nhập cho đến ngày nay, đã luôn thực hiện được những việc làm nhằm mục tiêu mang lợi ích cho số đông. Thật vậy, khi Phật giáo Việt Nam có ảnh hưởng trong xã hội thì cũng vì tinh thần phục vụ số đông mà các bậc chân tu đã xây dựng được nhiều vị minh quân nổi tiếng là thuần từ và hết lòng lo cho dân. Ðiển hình là hai triều đại Lý, Trần được sử sách ta ca ngợi, thì trong thời kỳ đó, Phật giáo Việt Nam đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tầng lớp trong xã hội, tập họp được quần chúng và xây dựng được xã hội an lạc thạnh trị theo mô hình Phật giáo. Nhưng sau đó do ảnh hưởng của các luồng tư tưởng bên ngoài rồi bị thực dân Pháp đô hộ cho nên nhân dân Việt Nam vào những thời kỳ này đã bị đặt dưới sự cai trị tàn ác và tất nhiên giai cấp nông dân và công nhân cũng bị các địa chủ, các chủ đồn điền bóc lột một cách dã man. Vì vậy, họ phải gánh chịu đời sống hết sức cơ cực lầm than.

... Tinh thần gắn bó sâu xa của Phật giáo với người dân Việt được thể hiện qua câu thơ của Thiền sư Mãn Giác:

Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống bao đời của tổ tiên.

Thật vậy, những ngôi chùa thanh tịnh ẩn mình dưới những rặng cây trong xóm làng, với sự hiện hữu của các bậc chân tu đã là nơi chữa lành thân bệnh và tâm bệnh cho dân chúng, đã là nơi nương tựa cho những người bất an, khổ đau, giúp họ vơi bớt mệt nhọc, lo âu trong cuộc sống. Và hơn thế nữa, mái chùa cũng chính là nơi tập họp những người mang chí lớn không cúi đầu cam chịu những việc làm tàn ác của thế lực ngoại bang giày xéo lên cuộc sống người dân. Có thể khẳng định rằng, nhiều phong trào cách mạng đã được hình thành từ sự tụ họp dưới mái chùa những tâm hồn vì đại nghĩa.

Mối quan hệ mật thiết giữa đạo Phật với dân tộc cũng đã được Bác Hồ khẳng định khi Người đến thăm chùa Quán Sứ vào năm 1945, sau khi Người đọc Tuyên ngôn Ðộc lập. Trong buổi nói chuyện với các nhà lãnh đạo Phật giáo, Người đã nói rằng: "... Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một. Tôi mong các Hòa thượng, tăng ni và phật tử hãy tích cực thực hiện tinh thần Từ bi, Vô ngã, Vị tha trong sự nghiệp cứu nước, giữ nước và giữ đạo để cùng toàn dân sống trong Ðộc lập, Tự do, Hạnh phúc". (Theo Hòa thượng Thích Ðức Nghiệp, Hồ Chủ tịch, một biểu trưng nhân bản Việt Nam, Ðạo Phật Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, 1995, Tr.321).

Và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, một lần nữa thực tế đã cho thấy nhiều ngôi chùa là nơi chôn giấu vũ khí và tài liệu quan trọng của cách mạng. Chùa cũng là nơi hội họp bí mật của các nhà lãnh đạo cách mạng, là nơi tiếp tế lương thực và tiền bạc cho bộ đội. Với tấm lòng yêu nước của tăng ni, phật tử đã từng nuôi giấu rất nhiều cán bộ nằm vùng và là nơi trú ẩn của những nhà cách mạng nổi tiếng, điển hình như Trường - Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt đã một thời ẩn thân ở chùa, thoát khỏi sự truy nã của giặc một cách an toàn.

Ngay từ thời kỳ đầu khi giới sĩ phu yêu nước gần như bị tan rã dưới sự đàn áp của thực dân Pháp, đã có sự xuất hiện của các tu sĩ Phật giáo yêu nước ở rải rác trong các ngôi chùa trên khắp đất nước. Ðặc biệt nhất là ở miền Nam, phải nhắc đến Tổ Huệ Ðăng, một bậc chân tu tài đức nổi tiếng ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Tổ Chí Thiền ở tỉnh Châu Ðốc. Hai bậc chân tu này hoạt động nơi vùng đất khá hẻo lánh, nhưng với tài đức đặc biệt của các ngài đã thu hút được rất nhiều tu sĩ và nhân dân yêu nước thời ấy tập trung về chùa để tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ngày 3-2-1930, Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, kêu gọi toàn dân kề vai sát cánh tổ chức lực lượng đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, giành chủ quyền về tay nhân dân. Hưởng ứng lời kêu gọi ấy, các bậc chân tu tiền bối của giới Phật giáo đã tích cực tham gia hoạt động bí mật, như Hòa thượng Thiện Chiếu, Hòa thượng Trí Thượng, Hòa thượng Trí Thiền ở chùa Tam Bảo (Rạch Giá), Hòa thượng Pháp Linh, Hòa thượng Pháp Trí ở chùa Thiên Thai, (Bà Rịa), Hòa thượng Thái Không ở Trà Vinh... Các Ngài đã vận động tăng ni và Phật tử góp công, góp của để xây dựng phong trào và làm mọi việc mà Ðảng cần trong thời kỳ đó.

Ðến năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước và chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, các vị Hòa thượng tôn túc đã cởi áo cà sa, mặc chiến bào, thoát ly vào chiến khu, tham gia kháng chiến, như Hòa thượng Minh Nguyệt, Hòa thượng Pháp Tràng ở Mỹ Tho, Hòa thượng Bửu Ðăng, Hòa thượng Pháp Dõng ở Gia Ðịnh, Hòa thượng Pháp Hoa ở Gò Công, Hòa thượng Trí Ðộ ở Bình Ðịnh, Hòa thượng Thế Long ở Nam Ðịnh, Hòa thượng Thiện Hào ở Sài Gòn.

Tiếp theo, đến thời kỳ Mặt trận Việt Minh được thành lập, rồi đến Mặt trận Liên Việt và Mặt trận Giải phóng miền Nam, cũng đã có rất nhiều tu sĩ Phật giáo và Phật tử tham gia tích cực vào các hoạt động kháng chiến, không hề nao núng sờn lòng trước cảnh tù đày, tra tấn, chết chóc...

Ngoài việc nuôi giấu cán bộ, tiếp tế cho cách mạng, hoặc tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến, một điểm đặc sắc của giới Phật giáo trong việc góp phần đáng kể vào phong trào đại đoàn kết toàn dân, đó là giới Phật giáo đã vận động được quần chúng ủng hộ cách mạng một cách tích cực và có hiệu quả rõ rệt. Thật vậy, vì đại đa số quần chúng theo đạo Phật, cho nên nhiều tăng ni đã nhân những buổi lễ ma chay, cầu an, cầu siêu mà thực hiện thành công những công tác giao liên, binh vận, hoặc thuyết pháp để cảm hóa thành phần sĩ quan, binh lính, công chức của chế độ cũ, khiến họ thay đổi suy nghĩ, thay đổi thái độ sống. Chẳng những không còn ý chí chống lại cách mạng, mà họ còn âm thầm hỗ trợ, tuyên truyền cho cách mạng. Những kết quả này đã góp phần đáng kể vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975...

... Sau ngày đất nước thống nhất, tăng ni và Phật tử một lần nữa lại tích cực tham gia các phong trào xây dựng đất nước và an sinh xã hội. Giới Phật giáo đã tham gia MTTQ, HÐND các cấp và Quốc hội, đồng thời nhiệt tình phục vụ đồng bào trong cả nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Có những vị tu sĩ và Phật tử nguyện sống chung với những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS để an ủi, chăm sóc họ và nuôi dạy những trẻ em khuyết tật, mồ côi, như Hòa thượng Từ Giang ở quận 4, TP Hồ Chí Minh, Hòa thượng Thiện Chiếu ở Gò Vấp. Có nhiều vị tu sĩ đi tận vùng sâu, vùng xa để tài trợ cho việc mổ mắt, đem lại ánh sáng cho người mù, hoặc đem lại nụ cười cho các trẻ thơ bị sứt môi; điển hình như cố Hòa thượng Thích Tôn Thật. Những thành quả đóng góp của các vị này đã được Nhà nước công nhận và tặng thưởng Huân chương Lao động.

Riêng Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh đã đóng góp về từ thiện, xã hội, y tế, văn hóa... góp phần chia sẻ gánh nặng cho xã hội và phát triển đất nước. Tổng cộng số tiền đóng góp của 24 quận, huyện thuộc Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh trong năm 2009 là 171 tỷ, 832 triệu, 642 nghìn đồng và 12,5 tấn gạo, 30 ca hiến máu, 15 căn nhà tình thương và 100 phần quà. (Theo báo cáo tổng kết của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh năm 2009).

Có thể khẳng định rằng, tất cả mọi việc làm hữu ích cho cộng đồng xã hội của tăng ni và Phật tử Việt Nam từ thời kỳ dựng nước cho đến ngày nay đã thật sự nói lên sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân của giới Phật giáo đúng theo tinh thần Phật dạy vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc cho chư Thiên và loài người...

Có thể bạn quan tâm