Ông sinh năm 1925 tại làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) và mất năm 1993 tại Hà Nội. Tôi nhớ năm 1993 ấy, khi ông đi xa, cả dãy phố Ngô Quyền ngơ ngác. Ngơ ngác vì từ đây vắng bóng một ông già hiền lành, có mái tóc bạc, bộ râu vểnh và cái miệng hay cười, luôn thân mật với mọi người, từ anh bơm xe đến chị hàng nước. Những hàng cây, hè phố trống vắng, buồn tênh vì chiều chiều không được nâng bước một thi nhân và các bạn thơ của ông từ ngôi nhà 70 đến quán rượu 49...
Tôi được gặp ông nhiều lần trong những năm ông đã về hưu, bỏ lại sau các chức vụ rất quan trọng lúc đó: Giám đốc NXB Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn, Viện trưởng Viện Văn học. Tuy vậy, ông thường đến viện, dự lớp Hán Nôm với chúng tôi, để chỉ vẽ thêm, nhưng quan trọng hơn như là một sự nhớ chữ, nghiện chữ... Qua đó, tôi được biết ông là người viết thư pháp rất bay bướm và có hồn. Tôi cũng được biết thêm rằng, những gì ông đã viết, thật ra còn rất ít ỏi so với những gì ông có.
Ít ỏi là so với ông, so với Ðỗ Phủ, chứ những gì ông để lại đã làm kinh ngạc mọi người. Mặc dù rất bận với công việc quản lý, ông cũng có tới bảy tập thơ; tập đầu tiên là Quê hương chiến đấu (1955); tập cuối cùng là Mời trăng (1992). Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi và phê bình, tiểu luận. Ðặc biệt với trình độ ngoại ngữ nhuần nhuyễn Anh, Pháp, Hoa, ông đã dịch những tác phẩm của những nhà văn lớn thuộc các nền văn học Nga, Pháp, Ðức, Trung Quốc, Ba Lan, Hung-ga-ri như Pu-skin, Mai-a-cốp-xki, A-đam Mic-ki-ê-vích, Pê-tô-phi, Hai-nơ, Ðỗ Phủ, Lục Du... Vào những năm đầu của nửa cuối thế kỷ 20, việc dịch các tác phẩm văn học nước ngoài ở Việt Nam có một giá trị rất lớn, nhằm bồi dưỡng trình độ văn học cho rất nhiều thế hệ khi thế giới mới chỉ là những tiếng vọng xa xôi.
Như mọi tuổi học trò khác, thơ ông đã nằm lòng hàng chục năm nay trong trái tim tôi. Song bây giờ đọc lại, tôi bỗng thấy sửng sốt, nhận được một bài học vô giá cho người cầm bút. Ðó là làm thế nào để tạo nên sự tươi mới, mạnh mẽ và hữu ích cho những tác phẩm văn chương. Có lẽ, cũng trong một ngày chiêm nghiệm sâu xa, bị thuyết phục bởi những câu thơ thấm thía tình đời và giản dị của Hoàng Trung Thông, nhà thơ Vũ Quần Phương đã chợt nhận ra rằng, thơ Hoàng Trung Thông có nhiều thuộc tính của đất, chắc bền và có sức nuôi người !
"Sức nuôi người"- chứ không phải thể hiện cái dị kỳ, tài khéo- mới là mục đích, là "cái đẹp" thơ ca cần vươn tới.
Gắn bó sâu sắc, máu thịt với nhân dân, với cuộc sống, với sự nghiệp của Ðảng, chính là bản chất người, là điểm tựa vững vàng nhất làm nên những giá trị nhân văn và sức sống lâu bền của thơ Hoàng Trung Thông. Nói một cách khác, do bám rễ sâu, hút được nguồn mạch dào dạt của đời, đã làm nên cái xanh tươi, dạt dào của ngọn bút.
Nhiều lần, tôi băn khoăn rằng, văn học Việt Nam sau năm 1975, rồi sau năm 1986, bước vào thời kỳ đổi mới, vẫn chưa gặt hái được nhiều thành tựu; nhiều cây bút chợt lóe sáng rồi nhanh chóng rơi vào bế tắc. Cái được mới chỉ là làm cho bạn đọc và nhà quản lý quen hơn với tiếng nói đa thanh và cái riêng biệt cũng có thể tồn tại trong địa vị pháp lý. Nhưng sức sống lâu dài, sự truyền cảm mạnh mẽ đã rất ít có trong văn học đổi mới, dù đã non nửa thế kỷ!
Có lẽ đã thiếu một cái gì đó thật sáng và thật mạnh.
Cơ chế thị trường và sự biến động, phân tầng mạnh mẽ chưa từng thấy đã xé lẻ hồn người theo những thị phần khác nhau. Con người trở nên nô lệ cho sự kiện và sản phẩm ngày càng phong phú và hấp dẫn do mình tạo ra.
Chỉ độc tôn cái tôi, không thấy và không liên kết được với mọi người; trên cánh đồng hoang vắng niềm tin và tình thương yêu con người thì không thể có hoa trái thơm lành của những mùa màng; không những thế, đôi khi hồn mình còn tự nhiễm nấm độc và cỏ dại.
Làm người có lúc vui, lúc buồn. Hoàng Trung Thông cũng vậy. Về cuối đời, nhìn người bơm xe, người uống rượu, nhớ bạn thân họa sĩ Mai Văn Hiến ông bỗng chạnh lòng, đời người không bằng cái lốp xe, có thể bơm được. Trước trăng uống rượu, ông viết tặng Xuân Diệu và giãi bày mối sầu nhân thế, khao khát tri âm: Một mình ta mời trăng mời bạn/Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm/Bạn uống rượu lòng ta không thể chán/Ta thương ta, thương người xa, thương thầm...
Ðó là khi ông thể hiện cái cá thể, nhưng không hoàn toàn là cá thể, mà là sự hòa nhập vào nhân loại muôn năm.
Ngay từ đầu khi bước vào văn chương, ông đã xác định vị thế mình trong tập thể.
Hồi Nguyễn Sơn, Nguyễn Chí Thanh, Ðặng Thai Mai công tác tại Khu Bốn, rất chú trọng đến công tác văn hóa, bồi dưỡng những tài năng cho công cuộc kiến quốc sau này. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Tài Cẩn... là những người được Ðặng Thai Mai lựa chọn và trực tiếp rèn dạy. Bài ca vỡ đất, một bài thơ được lan truyền rộng rãi và có ảnh hưởng tích cực trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chính là bài thi tốt nghiệp của lớp bồi dưỡng văn hóa kháng chiến năm 1948 của Hoàng Trung Thông. Ông xuất hiện là một thành viên trong "đoàn áo vải": Chúng ta đoàn áo vải/Sống cuộc đời rừng núi bấy nay/Ðồng xanh ta thiếu đất cày/Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng. Chính vị thế ấy đã làm nên niềm tin tưởng và sức mạnh gieo trồng sự sống Bàn tay ta làm nên tất cả/Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. Câu thơ ấy đã giúp biết bao nhiêu người vượt khó khăn trong cuộc sống, bền ý chí đi lên.
Tôi cũng từng suy luận về hình thức thơ Hoàng Trung Thông. Vì sao một người lớn lên trong Ðường thi, lục bát, lại làm thơ tự do? Là cũng vì cái vị thế gắn bó, hòa nhập làm một với cuộc sống nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, cả dân tộc, hầu hết gồm những người "dưới đáy" được giải phóng. Họ bật lên với một sức mạnh trẻ tươi, gân guốc. Họ đứng lên làm chủ cuộc sống và làm nhân vật chính của văn học. Họ trẻ và mới từ cách nghĩ, cách nói đến việc làm. Hoàng Trung Thông chính là họ nên đã sớm bắt nhịp, hòa trong tiếng nói đại chúng.
Trong một bài thơ nổi tiếng khác của Hoàng Trung Thông, bài Bao giờ trở lại, nhà thơ hóa thân trong người nông dân Bắc Bộ để nói lên tình cảm quân dân cá nước chỉ có với Bộ đội Cụ Hồ. Thơ Hoàng Trung Thông lúc nào như cũng reo ca, làm nẩy tươi những nụ chồi của ấm áp tình người, của hạnh phúc: Các anh về/Mái ấm nhà vui/Tiếng hát câu cười/Rộn ràng xóm nhỏ... Nhà thơ hào hứng cùng anh chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Tôi cùng anh bước trên đê nhỏ/ Ấo nâu bạc màu bay với gió/Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh/Vẽ cả ngày mai thành bức tranh. Trong con mắt nhìn cuộc sống của nhà thơ Hoàng Trung Thông luôn có một trái tim, hơn thế, là một trái tim nồng hậu. Ðến Sa Vĩ, nhìn doi cát, ông liên tưởng: Dải cát nằm dài uống nước biển khơi/ Như một trái tim người/ Ðang đập nhẹ với nước triều lên xuống.
Nhà văn lớn, để có thể là người hướng đạo, phải là người đọc làu vạn quyển sách, đi quá vạn dặm đường để mà hiểu, mà yêu, mà làm ánh đèn dẫn lối. Lời một bài hát cổ của Nga nói Anh làm sao trở thành người hướng đạo, Khi trên lối đi anh chẳng thấy điều gì. Trên mỗi dặm đường của Tổ quốc, trái tim nhà thơ lại rung lên: Mỗi lần đi vai nặng ba lô/Mang nặng mồ hôi, nặng ước mơ/Ôi Tổ quốc ngày đi nghìn dặm/Mỗi đoạn đường rung một tứ thơ.
Và tứ thơ rung động nhất là quê hương. Ông về quê như đứa trẻ sà vào lòng mẹ, ríu rít yêu thương không thỏa: Một ngọn lá, một mái nhà cũng nhớ/Một con đường, một dòng nước cũng nao nao/Bao người thân tay bắt miệng chào/Câu chuyện râm ran pháo nổ/Chén nước đượm thơm tình mong nhớ Niềm vui theo khói thuốc tỏa vờn/Chuyện trong nhà, chuyện xóm thôn Mỗi tiếng nói, một nụ cười khấp khởi... Ông cảm nhận được cái mới của cuộc sống và yêu thêm biết mấy quê hương Mới từ trong mỗi trái tim người/Mới đến cả mảnh trời xanh biếc/Tôi đi dưới hàng cây thân thiết/Yêu bao nhiêu thôn xóm ruột rà.
Từ đường quê, dặm đời cụ thể đến con đường lớn, ông thấy mình được bay bổng trong đó. Ông đã chỉ ra trong mỗi bài thơ, trong cả cuộc đời sáng tác của mình một chân lý: Thơ muốn khỏe khoắn, "nuôi người" thì nhà thơ trước hết phải trong sáng một niềm tin lý tưởng, phải ươm mình trong sự nghiệp lớn của nhân dân: Tôi ươm hồn trên những nẻo đường đời/Như đồng quê ươm hạt giống thần kỳ/Ðường ta đó, hàng cây đang tỏa biếc/Cảm ơn Ðảng, Mùa - xuân - bất - tuyệt/ Ðường ta đi chưa nhổ hết chông gai/Nhưng hoa thơm đã ngát nửa bầu trời ("Ðường chúng ta đi").
Xin được mãi biết ơn ông về điều đó !