Đánh phá miền bắc nhằm hỗ trợ cho nỗ lực quân sự ở miền nam luôn là một ưu tiên hàng đầu của đế quốc Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cùng với việc đưa lục quân vào miền nam, đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc trên quy mô lớn, với cường độ ngày càng khốc liệt , ngày càng dữ dội.
Từ năm 1965, chiến tranh lan rộng ra cả nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 11 (khóa III) tháng 3-1965 quyết định chuyển toàn bộ hoạt động miền bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của hai quân chủng "át chủ bài" trong lực lượng quân sự khổng lồ của Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ hậu phương lớn - vai trò có ý nghĩa thường xuyên quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến là cả một quá trình gian khổ, khó khăn, mà ở đó, biết bao vấn đề to lớn, phức tạp đặt ra đòi hỏi toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta phải tăng cường đoàn kết chung quanh Ban Chấp hành Trung ương, ra sức khắc phục gian khổ, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nỗ lực phấn đấu thực hiện.
Cùng với việc chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức, chuyển hướng nền kinh tế, miền bắc nhanh chóng tăng cường lực lượng vũ trang ba thứ quân, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối biển, sẵn sàng giáng trả đích đáng và hiệu quả không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền bắc.
Theo lời kêu gọi của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắp nơi trên miền bắc, các phong trào thi đua "ba sẵn sàng", "ba đảm đang"... dấy lên sôi nổi và mạnh mẽ, biểu hiện khí thế của người dân hậu phương. Năm 1965, gần 290.000 thanh niên tình nguyện gia nhập quân đội, trong đó, tháng 5-1965, đã có tới 150.000 người. Những tháng cuối năm 1965, hàng chục nghìn thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được động viên vào quân đội, hàng chục nghìn người khác được gọi vào lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến.
Ðến cuối năm 1965, khối bộ đội chủ lực trên miền bắc tăng từ 195.000 lên 400.000 quân; các quân chủng, binh chủng cũng tăng gấp ba lần so với một năm trước đó. Riêng Quân chủng Phòng không - Không quân, những tháng năm ấy, đã phát triển vượt bậc - không chỉ có pháo phòng không mà còn có các binh chủng tên lửa đất đối không, ra-đa cảnh giới, không quân tiêm kích. Nếu năm 1964, lực lượng phòng không miền bắc chỉ có 15 trung đoàn và 14 tiểu đoàn pháo cao xạ, một trung đoàn không quân tiêm kích, hai trung đoàn ra-đa, thì từ năm 1965 đến năm 1967, con số đó tăng lên 33 trung đoàn và 66 tiểu đoàn cao xạ, 10 trung đoàn tên lửa đất đối không, hai trung đoàn không quân tiêm kích, bốn trung đoàn và một tiểu đoàn ra-đa.
Ðến năm 1972, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo phòng không của bộ đội chủ lực tăng gấp từ 5 lần đến 7 lần so với năm 1965. Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương cũng phát triển với tốc độ nhanh, được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, nhiều đại đội pháo phòng không 12,7 mm, 14,5 mm, 37 mm, 100 mm; dân quân tự vệ hình thành hàng nghìn đơn vị trực chiến, tham gia phối hợp chiến đấu với bộ đội.
Cùng với lực lượng phòng không, lực lượng phòng thủ biển cũng có bước phát triển mạnh mẽ, bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ.
Toàn bộ lực lượng phòng không, phòng thủ biển được bố trí thành thế trận chiến tranh nhân dân, vừa đánh địch rộng khắp, vừa tập trung hỏa lực mạnh bảo vệ các khu vực mục tiêu trọng điểm. Thế trận đó cho phép quân và dân miền bắc đánh địch rộng khắp, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc và sáng tạo nhiều cách đánh mưu trí, táo bạo, hiệu quả cao, vô hiệu hóa được nhiều thủ đoạn đánh phá cũng như nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại của máy bay, tàu chiến Mỹ.
Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải Nhà nước, vận tải nhân dân..., theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh, đáp ứng đòi hỏi của tình hình.
Với quyết tâm cao, cơ cấu, tổ chức và bố trí lực lượng, bố trí thế trận hợp lý; với vũ khí, trang bị, phương tiện bảo đảm ngày càng được cải tiến và tăng cường; với trí tuệ, tài năng, lòng dũng cảm của con người Việt Nam, lực lượng phòng không, phòng thủ biển và lực lượng bảo đảm vận tải bao gồm ba thứ quân trên miền bắc thật sự là nòng cốt phát động phong trào toàn dân tham gia chống chiến tranh phá hoại.
Leo thang đánh phá miền bắc, mục tiêu hàng đầu của đế quốc Mỹ là hòng khuất phục ý chí chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Ðể đạt mục tiêu đó, đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn và biện pháp đánh phá nào - dù tàn bạo, độc ác đến đâu, hòng "đưa miền bắc trở lại thời đồ đá".
Theo tính toán của một số tác giả người Mỹ, chỉ tính đến năm 1967, thì không quân Hoa Kỳ cũng đã kịp ném xuống miền bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom, đạn các loại, nghĩa là nhiều hơn khối lượng bom đạn mà Mỹ ném xuống chiến trường châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai và gấp hai lần số bom ném xuống Triều Tiên, gấp ba lần số bom ném xuống chiến trường Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Hầu hết toàn bộ hệ thống giao thông, cầu đường, nhà ga, kho tàng, bệnh viện, trường học, nhiều cơ sở kinh tế, công trình công cộng, hệ thống đê điều, đập nước... bị bom đạn Mỹ tàn phá nặng nề; trong đó có hàng trăm trường học và cơ sở y tế, hàng trăm nhà thờ và chùa chiền, hàng chục thị xã và thành phố bị san phẳng...
Trong khói lửa chiến tranh, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao quyết tâm, tăng cường đoàn kết, bền lòng đánh Mỹ. Nhờ thế, dù chiến tranh khốc liệt, cuộc sống bị đảo lộn, bị tổn thất về người và của..., nhưng suốt những năm tháng gian lao mà hào hùng thuở ấy, miền bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, sản xuất và bảo đảm giao thông không bị ngưng trệ; người hậu phương đầy bản lĩnh, tự tin, ngẩng cao đầu đánh Mỹ và trừng trị đích đáng không quân Hoa Kỳ - "át chủ bài" của lực lượng quân sự khổng lồ của đế quốc Mỹ.
Trong cuộc chiến đấu đó, quân dân miền bắc đã kết hợp chặt chẽ phương thức tác chiến tại chỗ và rộng khắp của lực lượng phòng không, phòng thủ biển của cả ba thứ quân với phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng, trong đó, lực lượng giữ vị trí chủ yếu là Quân chủng Phòng không - Không quân. Một sự kết hợp như vậy cho phép chúng ta vận dụng và sáng tạo nhiều cách đánh độc đáo phù hợp con người Việt Nam, điều kiện Việt Nam, tạo nên lưới lửa phòng không, phòng thủ liền mạch, dày đặc, rộng khắp và đầy hiệu lực.
Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận: "Trong chiến dịch đánh phá bằng không quân vào các khu vực được bảo vệ dày đặc ở miền bắc Việt Nam, cứ mỗi lần xuất kích, Mỹ mất một phi công". Báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học Ðạo Thiên chúa số ra ngày 22-7-1967 xác nhận rằng: "Trong khi đánh nhau với pháo bờ biển miền bắc Việt Nam, các tàu chiến Mỹ đã gặp phải sự chống trả ngày càng có hiệu lực. Các tàu khu trục và tuần dương phải chạy nhanh qua vùng nguy hiểm để bắn vào mục tiêu trên bờ".
Còn như, những nỗ lực chặn cắt luồng tiếp tế từ ngoài vào miền bắc và từ miền bắc vào miền nam của không quân và hải quân Mỹ, cũng không mang lại hiệu quả như phía Mỹ trông đợi. Những thực tế đó, không phải sau này mà ngay từ những năm đầu tiến hành chiến tranh phá hoại, giới chức cao cấp Mỹ đã nhận thấy rằng: "Không một khối lượng bom đạn nào ném xuống miền bắc - trừ phi có một sự hủy diệt mang tính diệt chủng, điều mà không một ai tính tới, mới có thể chấm dứt nổi cuộc chiến tranh" (thừa nhận của Mac Namara trong cuốn: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam).
Cuộc chiến đấu bảo vệ hậu phương miền bắc là một phần rất quan trọng của cuộc chiến tranh nhân dân của cả nước chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ trong thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975. Với thắng lợi qua hai lần đọ sức trực tiếp với những "thần sấm", "con ma", "pháo đài bay B52", "cánh cụp, cánh xòe,..." của không quân Hoa Kỳ, miền bắc đã chứng tỏ trên thực tế sức mạnh và tính bền vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ do chế độ ưu việt được thiết lập và củng cố vững chắc, nhờ khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được chăm lo mở rộng, tăng cường.
Và trên nền đó, lực lượng phòng không, phòng thủ biển và các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông bao gồm ba thứ quân được xây dựng và phát triển theo một đường lối đúng đắn, bằng những giải pháp hiệu quả. Nhờ vậy, các lực lượng này ngày càng lớn mạnh cả về đội ngũ, cả về trang bị vũ khí và trình độ tác chiến, đóng vai trò nòng cốt để Ðảng ta tổ chức thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối biển đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.