Dân tộc và hiện đại, yếu tố quan trọng để phát triển văn học - nghệ thuật

Ở đầu thế kỷ 21 này, bối cảnh mới của sự phát triển, đang đặt văn học - nghệ thuật Việt Nam trước yêu cầu phải giải quyết một số vấn đề lý luận - thực tiễn mới. Hội thảo về tính dân tộc, tính hiện đại do Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (HÐLLPBVHNT T.Ư) mới tổ chức gần đây là một việc làm để đáp ứng yêu cầu đó...

Hội thảo với chủ đề Tính dân tộc và tính hiện đại trong văn học - nghệ thuật Việt Nam hiện nay đã thu hút sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học - nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ, các nhà quản lý... Và như trong bài phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư đã khẳng định: "Quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại là một trong những phạm trù trung tâm của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam đương đại, là vấn đề của cả nền văn hóa, liên quan đến tất cả những người đang hoạt động và sáng tạo văn học, nghệ thuật, vì vậy, triển khai đề tài của Hội thảo khoa học hôm nay nhằm phát huy trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm, tâm huyết của các nhà khoa học, của các văn nghệ sĩ để cùng nhau trao đổi, thảo luận, tranh luận, phân tích nhằm chỉ ra cho trúng những đòi hỏi mới đối với văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay và cùng nhau bàn thảo xử lý những vấn đề đang đặt ra giữa dân tộc và hiện đại cả trong lý luận và thực tiễn".

Ở Việt Nam, giao lưu và tiếp xúc văn hóa đang đưa tới cho chúng ta nhiều thuận lợi, đồng thời cũng đưa tới không ít khó khăn. Nhiều loại sản phẩm văn học - nghệ thuật nhân danh hiện đại đang ở trong xu thế có khả năng xóa nhòa ranh giới các bản sắc, đồng hóa các nền văn hóa dân tộc.  Ðề dẫn của Hội thảo đã viết: "Một cuộc xâm nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều mầu sắc, thông qua hệ thống báo chí, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu, hội thảo. Một số nước có cả những trung tâm văn hóa tại Hà Nội, đỡ đầu, khuyến khích tập hợp khá đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ và công chúng văn nghệ. Các thế lực thù địch không che giấu tham vọng biến văn hóa thành "đội quân tiền trạm" hòng tác động, chuyển hóa tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen, lẽ sống và cách sống của một bộ phận công chúng. Trong các hướng triển khai, họ không quên chọn văn học - nghệ thuật làm mũi đột phá, vì đó là lĩnh vực nhạy cảm nhất mà lại có ảnh hưởng xã hội rộng lớn".

Trong các tham luận có tính chất nghiên cứu - lý luận, hầu hết tác giả đều tập trung làm sáng tỏ nội hàm của các khái niệm "tính dân tộc", "tính hiện đại" và mối quan hệ giữa chúng được xem xét như là một thống nhất biện chứng. Từ góc nhìn của mối tương quan giữa bản sắc với lịch sử, chính trị, xã hội mà tiền đề là sự bình đẳng, quyền tự quyết định vận mệnh của mỗi dân tộc, GS Hà Minh Ðức cho rằng: "Các dân tộc đều có những nét tương đồng về tình yêu Tổ quốc, yêu lao động, gắn bó chung sức xây dựng cộng đồng... Nhưng mỗi dân tộc là một thế giới, một pho lịch sử, một kho báu riêng không giống nhau... Tính dân tộc của mỗi quốc gia thường có hai mặt ổn định và lưu chuyển. Phần ổn định góp phần tạo nên cốt cách, bản sắc của dân tộc, phần phát triển theo dòng lịch sử về phía trước và góp phần bồi đắp thêm cái mới cho dân tộc. Mỗi dân tộc có nhiều phẩm chất và cả những hạn chế" cho nên "mỗi dân tộc phải chiếm lĩnh được những giá trị văn hóa cao nhất". Nghiên cứu từ lịch sử dân tộc, đặc biệt là từ những biến động trong đời sống tinh thần ở Việt Nam trong đầu thế kỷ 20, PGS, TS Thành Duy viết: "Những quan điểm khác nhau về chủ nghĩa dân tộc và tính dân tộc trong văn hóa, văn nghệ ở Việt Nam thời kỳ cận hiện đại đã diễn ra rất phong phú và phức tạp, phản ánh cuộc đấu tranh mới trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, và văn học - nghệ thuật nhằm tiến tới văn minh, tiến bộ và hiện đại phù hợp với thời đại mới".

Tuy nhiên, do thực tế còn có quan niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm hiện đại, mà PGS, TS Thành Duy cho rằng: "Ðể thấy rõ thực chất vấn đề dân tộc, chủ nghĩa dân tộc và tính dân tộc hiện đại, không có con đường nào hơn là trở về với hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, nhìn rõ tư duy và cách vận dụng sáng tạo, đồng thời phát triển học thuyết Mác của Người vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam". Từ góc nhìn văn hóa học, tham luận của PGS, TS Nguyễn Văn Dân khảo sát quan hệ giữa truyền thống với hiện đại, như Ðảng ta khẳng định "kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người". Từ việc khảo sát Những tác động tích cực của giá trị văn hóa truyền thống đối với con người và văn hóa Việt Nam hiện đại đến Những tác động tiêu cực của các giá trị văn hóa truyền thống đến lối sống và văn hóa của người Việt Nam hiện nay với những nguyên nhân bên trong và bên ngoài, ông đề xuất ý kiến: "Chúng ta cần phân biệt ra những giá trị cơ bản nhất với những giá trị đặc thù, riêng biệt", vì "xét từ góc độ hiện tại theo tinh thần lịch sử, không phải mọi truyền thống đều có giá trị như nhau, và quan trọng hơn cả là không phải mọi truyền thống đều có giá trị tích cực phục vụ cho công cuộc phát triển của con người và xã hội".

Trong một số nội dung được đề cập trong tham luận của GS, TS Mai Quốc Liên, nổi lên một ý tưởng khá độc đáo là xem xét mối tương quan giữa hiện đại và tiên tiến để đi tới đánh giá: "Có hai cực đoan trong vấn đề này: Ði về Tây phương một chiều, lấy Tây làm trung tâm và chạy vòng quanh nó, theo nó, coppie nó, không tính đến các điều kiện lịch sử, nhân tố chính trị, kinh tế - xã hội, tâm lý dân tộc... Mặt khác, cực bảo thủ cũng rõ ràng: Ta còn ở quá xa nhân loại, quá xa hiện đại (vì sự tiếp xúc còn ít, vốn văn hóa còn nghèo...). Do đó trong sáng tạo nghệ thuật, nhất là trong văn học, nhiều người cứ viết như cũ, không chịu nghiền ngẫm tiếp nhận sáng tạo những thành tựu của thế giới".

Nhìn nhận vấn đề trong tính lịch sử, TS Hoàng Ngọc Hiến nhận định: "Tính hiện đại thường được đặt ra như đối lập với bản sắc dân tộc (hoặc tính dân tộc). Sở dĩ như vậy vì tính hiện đại thường bị hiểu một cách phiến diện, bị quy lược vào sự tiếp thu chủ nghĩa duy lý (của phương Tây hiện đại), bị xem là kết quả đơn thuần của quá trình hợp lý hóa... sự đối lập giữa tính hiện đại và tính dân tộc là không lô-gich. Tính hiện đại hiểu một cách đầy đủ là bao hàm quá trình chủ thể hóa và chủ thể dân tộc không ở ngoài quá trình này. Trong hoàn cảnh dân tộc bị xâm lược, nhiệm vụ bảo vệ bản sắc dân tộc thường được nhấn mạnh. Tuy nhiên hình thức tích cực bảo vệ bản sắc dân tộc là phát huy và làm giàu bản sắc dân tộc".

Tham luận của nhà văn Vũ Hạnh phân tích "ba tệ trạng - cũng là ba kẻ thù - trước mắt của dân tộc mình là sự đói nghèo, sự hụt hẫng về kiến thức, và văn hóa bị xâm lăng đang còn đe dọa từng ngày sự sống của toàn dân tộc", ông đặt vấn đề về vai trò "chiến sĩ" của văn nghệ sĩ như trong câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông viết: "Những người sáng tác có quyền thể hiện những gì mà mình yêu thích hoặc thấy bức xúc cần phải bày tỏ, song các công trình của họ chỉ thật sự có ý nghĩa khi góp được phần nào đó vào sự tồn tại, phát triển của dân tộc mình. Nỗi khổ của dân tộc ta còn là nghèo nàn, còn là kém học, còn bị xâm lăng văn hóa từng ngày, nếu quay lưng lại các đe dọa ấy, chúng ta chỉ là những kẻ vong ân, đào ngũ, lẩn trốn trách nhiệm của mình, và những gì ta sáng tạo không hơn lá rụng, bèo trôi, nếu không là nơi trú ẩn nuôi bằng ảo vọng".      

Trong các tham luận liên quan trực tiếp tới lĩnh vực nghệ thuật, cụ thể (như văn học, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, múa, nghệ thuật tạo hình, nhiếp ảnh...), các tác giả tập trung phân tích thực trạng các vấn đề từ quan niệm về tính dân tộc, tính hiện đại tới tác phẩm của từng lĩnh vực. Ðề cập tới thơ, tham luận của nhà thơ Trần Nhuận Minh khái quát về: sự "bùng nổ của thơ tình" trong đó "nhiều tập rất kém, thậm chí về kỹ thuật, còn "chưa sạch nước cản", đã được in từ những nhà xuất bản có tên tuổi lớn nhất nước, cũng từng có uy tín nhất nước; sự "bùng nổ của những vấn đề cá nhân trong mọi ngõ ngách sâu kín nhất, với đủ loại góc độ, cung bậc. Nó dường như quay lưng hẳn với cái cộng đồng"; sự "tìm tòi hoàn toàn về hình thức đã được đề cao quá mức. Ðã đến lúc cần đề phòng sự xuất hiện những yếu tố có tính chất phe nhóm trong việc đánh giá những đổi mới và cách tân thơ"...

Về điện ảnh, PGS, TS Trần Luân Kim cho rằng: "Ngoài một số tác phẩm điện ảnh đạt được hiệu quả nhất định trong việc thể hiện bản sắc và yếu tố hiện đại, phần lớn các tác phẩm còn lại rơi vào khiên cưỡng, nhợt nhạt, thậm chí vô vị. Có những phim đơn thuần thương mại: chọc cười dễ dãi, câu khách bằng những biện pháp thiếu nghệ thuật và thiếu chuyên nghiệp... Bên cạnh đó, xuất hiện rải rác đâu đó hiện tượng cùn nhẵn, bắt chước phim nước ngoài, dẫn đến lai căng, bộc lộ trạng thái thiếu tự tin và thiếu sáng tạo". Cũng như trong âm nhạc, múa là một loại hình nghệ thuật còn non trẻ ở Việt Nam nhưng đã đạt được một số thành tựu, đặc biệt là trong việc giải quyết yêu cầu về tính dân tộc và tính hiện đại, tuy nhiên, hiện tại, múa cũng có vấn đề riêng của nó, mà theo nhà lý luận Thái Phiên thì: "Chúng ta cần kiên quyết và tránh những sự thể hiện tùy tiện, dễ dãi, biến các tác phẩm nghệ thuật múa thành những thứ "hàng chợ" lai căng, vay mượn (học mót) ở bên ngoài để đánh mất bản sắc của dân tộc mình"... Từ tâm huyết nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm, các tác giả tham gia Hội thảo đều cố gắng xem xét vấn đề một cách nghiêm túc và thẳng thắn, từ đó xác định vai trò của văn nghệ sĩ đối với sự phát triển của văn học - nghệ thuật Việt Nam, như PGS, TS Trần Ðình Ngôn khẳng định: "Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là tiêu chí hoàn toàn có thể đạt được trong một vở diễn chèo, tuồng, cải lương. Ðiều quan trọng là ở chỗ người nghệ sĩ có tán đồng với quan điểm của Ðảng, có muốn giữ bản sắc dân tộc cho kịch hát Việt Nam hay không, có quyết tâm làm theo định hướng đó hay không".

Tổng kết Hội thảo, GS, TS Phùng Hữu Phú - Ủy viên BCH T.Ư Ðảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo T.Ư, Chủ tịch HÐLLPBVHNT T.Ư, cho rằng: "Các bài tham luận dù có độ dài ngắn khác nhau, cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau, nội dung thể hiện khác nhau nhưng đều bám sát chủ đề Hội thảo, và đặc biệt là, đều thể hiện sự trăn trở suy tư, đầy tâm huyết và trách nhiệm trước vận mệnh của nền văn học, nghệ thuật nước nhà; nhiều tham luận có chất lượng cao, phản ánh trí tuệ, trình độ lý luận và sự am tường thực tiễn văn học, nghệ thuật nước nhà của những người đã gắn bó, lăn lộn với đời sống văn học, nghệ thuật nhiều năm tháng". Thay mặt Ban Tuyên giáo HÐLLPBVHNT T.Ư, đồng chí Phùng Hữu Phú đã khái quát các vấn đề lớn mà Hội thảo đã đặt ra, ghi nhận ý kiến của các tác giả, và khẳng định các cơ quan hữu quan sẽ nghiên cứu tổng hợp, hoàn thiện các đề xuất, kiến nghị, xây dựng một văn bản đề xuất, kiến nghị chính thức của Hội đồng gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Chính phủ.

 Nguyễn Hòa

Có thể bạn quan tâm