Cuộc sống mới ở Nông trường Rạng Ðông

Hình ảnh về Nông trường Rạng Ðông còn in đậm qua những trang sách tập đọc thuở học trò. Ðó là bình minh trên biển, trong trẻo và ào ạt gió. Những cánh đồng thẳng cánh cò bay, kênh, mương thẳng như kẻ chỉ, rộn rã tiếng người, tiếng máy cày át đi tiếng sóng.

Câu thơ của nhà thơ Tế Hanh phác thảo về nông trường đầy ấn tượng: "Nông trường ta rộng mênh mông/ Trăng lên, trăng lặn vẫn không ra ngoài". Từ bao đời, hai con sông Ðáy và Ninh Cơ cần mẫn chở phù sa tích tụ lên những bãi bồi ven biển Nghĩa Hưng. Nông trường Rạng Ðông hình thành trên vùng đất mới lấn biển, là thành quả bài ca lao động lạc quan, thấm đẫm vị mặn của mồ hôi và máu của nhiều thế hệ. Ngày 19-5-1958, kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ là ngày khởi công đắp đê lấn biển, xây dựng nông trường. Qua hơn hai năm dãi nắng dầm mưa, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 269 (Quân khu 4) vốn phần lớn là những thanh niên nông dân mặc áo lính, từng chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên khói lửa,  nay sát cánh cùng lực lượng thanh niên Cờ hồng, lực lượng Tiểu đoàn 1 và dân công các huyện trong tỉnh Nam Ðịnh. Lúc cao điểm, công trường huy động tới 11 nghìn người, ngày đêm giành giật với biển khơi, hoàn thành con đê lấn biển dài 11,6 km từ Quần Vinh đến Ngọc Lâm với hơn nửa triệu m3 đất đá, tạo nên vùng đất bãi bồi rộng 1.330 ha để thành lập nông trường. Tại phòng truyền thống của nông trường còn lưu giữ nhiều kỷ vật mang đậm dấu ấn một thời hào hùng, với không khí lao động sôi nổi trên công trường lấn biển lúc bấy giờ. Những lá cờ ghi công các tổ đội lao động xuất sắc, qua thời gian mặc dù bị bạc mầu, nhưng vẫn được nâng niu trong tủ kính. Bức ảnh cũ đã ố vàng vẫn lưu lại những nụ cười rạng rỡ và dòng khẩu hiệu thể hiện khát vọng và ý chí của tuổi trẻ mãi mãi còn cháy bỏng, thôi thúc:

"Bắt sóng bạc phải cúi đầu
Buộc biển sâu phải lùi bước
Lấn Thái Bình Dương
Mở rộng biên cương
Làm giàu cho Tổ quốc".

Sau công trình quai đê lấn biển là các chiến dịch làm thủy lợi, thau chua rửa mặn, làm ngọt hóa phù sa. Ðào hàng chục vạn m3 đất để làm nên 12 km kênh cấp một, 20 km kênh cấp hai, 86 km kênh cấp ba và hàng chục km đường trục, biến vùng đất bãi bồi lầy thụt nhiễm mặn trở nên cánh đồng, đất đai thuần thục màu mỡ, tưới tiêu chủ động. Rồi hệ thống nhà xưởng kho tàng, khu tập thể công nhân, nhà trẻ mẫu giáo... lần lượt ra đời. Những mái ấm gia đình với tiếng trẻ bi bô làm sinh động, tươi vui vùng đất mới.

Bây giờ Nông trường Rạng Ðông đã trở thành một khu dân cư trù phú và sầm uất. Thị trấn Rạng Ðông được thành lập năm 1987, trên cơ sở nông trường, quản lý 13,3 km2 và dân số lúc đó khoảng  5.000 người. Người dân thị trấn, xuất thân từ nông trường viên, gắn bó với ruộng đồng, nay không chỉ thuần làm nông nghiệp. Nhiều hoạt động dịch vụ đã trở nên nhộn nhịp. Kinh tế biển, công nghiệp chế biến và xa hơn, du lịch sinh thái đang là hướng mở ra hấp dẫn. Ðường trục chính của nông trường trải nhựa thẳng tắp hướng ra phía biển, hai bên là cánh đồng lúa xanh ngút ngát. Cơn mưa lốc tháng tư làm ngập úng nhiều thửa ruộng, cây lúa còn bết bùn trên lá đã cứng cỏi vươn lên. Những hàng cây soi bóng bên dòng kênh và phía xa, từng dãy nhà ở của nông trường viên thấp thoáng trong mầu xanh của cây trái.

Khu vực trung tâm thị trấn, các trường học cao tầng, trạm y tế được xây dựng khang trang và gần đó, nhà thờ xứ đạo đang được xây cất bề thế, còn nồng mùi vôi vữa, tạo thêm cảnh sắc làng quê êm ả, thanh bình. Ngày mới thành lập nông trường, lực lượng bộ đội, công nhân từ 27 tỉnh trong cả nước hội tụ về đây. Nay lớp con cháu họ đã gắn bó với mảnh đất này và được kế tục cha anh trở thành nông trường viên là niềm vinh dự. Chị Nguyễn Thị Vẻ là nhân viên làm việc ở nông trường bộ đã chín năm. Chị kể rằng, bố mẹ vốn là nông trường viên đã về hưu, thu nhập của chị mỗi tháng 1,8 triệu đồng, lương hưu của bố mẹ, hai người là bốn triệu đồng. Ngoài ra còn thu nhập thêm từ chăn nuôi, vườn cây, ao cá. Cuộc sống ở vùng quê như thế, không gợn chút âu lo.

Giám đốc Nguyễn Ðắc Kìm là người sôi nổi, nhiệt tình, mang phong cách vốn  là cán bộ Ðoàn Thanh niên. Anh là giám đốc thứ bảy của Nông trường Rạng Ðông kể từ ngày thành lập. Trong câu chuyện về những bước đi phát triển của nông trường, anh luôn nhắc về những người đi trước với tất cả sự trân trọng, nghĩa tình.

Ðể có hình ảnh Nông trường Rạng Ðông khang trang, trù phú ngày nay, không chỉ có mồ hôi đổ xuống  mà còn có cả máu. Những ngày đầu quai đê lấn biển, các anh, chị Phan Thanh Sắc và Mai Thị Bình đã hy sinh trong lúc hàn khẩu triệt giang. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 494 người, chiếm tới gần một phần ba số cán bộ, công nhân của nông trường lúc bấy giờ tham gia Quân đội chiến đấu trên các chiến trường, 150 người đã anh dũng hy sinh.

Ngay tại nông trường, bốn chiến sĩ tự vệ đã ngã xuống trong chiến đấu, chống lại các trận đánh phá, ném bom hủy diệt của kẻ thù, âm mưu muốn xóa sổ "đứa con đầu" của kinh tế quốc doanh nông nghiệp. Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà Ðảng và Nhà nước phong tặng là sự ghi nhận xứng đáng những đóng góp, hy sinh của lớp lớp cán bộ, nông trường viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ mảnh đất nơi cửa sông, đầu sóng.

Nhưng những bước đi, sự phát triển của Rạng Ðông không chỉ có mầu hồng. Ðã có lúc, nông trường đứng trước câu hỏi lớn: tồn tại hay không tồn tại khi chuyển sang cơ chế mới? Biết bao khó khăn ập đến. Mặt hàng cói không tiêu thụ được do mất thị trường truyền thống Liên Xô (trước đây) và các nước Ðông Âu, khiến nhiều lao động không có việc làm, kéo theo đời sống của hàng nghìn khẩu ăn theo gặp khó khăn. Ðất trồng lúa còn nhiễm mặn, năng suất thấp, chi phí cao, không hiệu quả.

Giám đốc Kìm nhớ lại ngày ấy, mỗi sáng, nhìn ra các cánh đồng, phân xưởng, tiếng máy vẫn nổ vang mà day dứt biết là thua lỗ. Cực chẳng đã, có lúc 219 công nhân bỏ việc về quê, để lại những cánh đồng hoang, từng mất bao công sức mồ hôi khai phá. Nhưng bản lĩnh của những con người trải qua  sóng gió và bom đạn, với niềm thôi thúc từ truyền thống và khát vọng xây dựng, làm giàu cho quê hương, nông trường đã vượt qua mọi thách thức. Vẫn là đồng đất và con người ấy, nhưng khi  tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cây trồng phù hợp đã mang lại hiệu quả. Từ chỗ chủ yếu trồng, chế biến cói và chăn nuôi gia súc, nông trường chuyển  sang trồng lúa, cây màu và trồng dâu nuôi tằm.

Nghe thì đơn giản vậy, nhưng để cây lúa, cây dâu bén rễ được trên đất cói trước đây là kết quả của cả quá trình bền bỉ thau chua, rửa mặn, tôn tạo đất. Tiếp đó là giải bài toán về động lực đối với người lao động. Trước đây, nông trường quản lý tập trung, nay thực hiện chính sách giao khoán và sử dụng đất ổn định cho nông trường viên và cả người dân địa phương tạo nên sự gắn bó, năng động của người lao động thật sự làm chủ trên mảnh đất của mình. Bằng các giải pháp đồng bộ, nông trường nhanh chóng bắt nhập với cơ chế mới.

Hơn 20 năm qua, Nông trường Rạng Ðông liên tục làm ăn có lãi. Hai năm trở lại đây, giá trị sản xuất mỗi năm khoảng 30 tỷ đồng, tăng gấp hai lần so với các năm 2000-2001.  Khi đời sống, việc làm đã ổn định, có thể nghĩ xa hơn, tính chuyện làm giàu. Từ năm 2001, nông trường lập dự án chuyển 124 ha đất trồng lúa nhiễm mặn năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, với tổng mức đầu tư 10 tỷ đồng, đã phát huy hiệu quả. Thu nhập trên mỗi ha mặt nước đạt 70 triệu đồng, cao gấp nhiều lần trồng lúa. Nuôi thủy sản nước ngọt cũng là lợi thế ở vùng này.

Qua hai lần chuyển dịch, nay nông trường đưa 215 ha đất nông nghiệp sang nuôi thủy sản, tạo nên sản lượng hàng hóa lớn. Giám đốc nông trường nhẩm tính: Sau khi chuyển đổi, nông trường dành lại 550 ha đất trồng lúa, với sản lượng đạt 6.000 tấn/năm, bảo đảm nguồn lương thực tại chỗ cho khoảng 10 nghìn nhân khẩu ở thị trấn Rạng Ðông, còn lại 2.500 tấn lương thực hàng hóa tiêu thụ trên thị trường. Vậy là đã chọn được bước đi đúng hướng và hiệu quả thực tế ở nông trường đã xóa đi định kiến về tính năng động và hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

Không chỉ dừng ở đó, nông trường vươn lên thực hiện chức năng là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của cả vùng. Ông Trần Ðức Vượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Hưng nhắc lại việc nông trường tiếp nhận nhiều người dân trong huyện đi kinh tế mới, được cấp đất sản xuất, giúp ổn định đời sống, làm minh chứng cho quan hệ mật thiết giữa Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương với nông trường. Người dân ở đây được hưởng lợi từ các công trình giao thông, trường học, y tế, điện, nước sạch do nông trường đầu tư mang lại  và tự hào là cư dân của thị trấn mang tên  nông trường đang phát triển.

Khác với vẻ sầm uất, náo nhiệt ngoài thị trấn, đêm ở nông trường yên tĩnh lạ. Gió từ biển thổi về mang vị mặn mòi. Sau đại công trường lấn biển năm 1958 lập nên nông trường, theo chu kỳ 25 năm bồi lắng, con đê mới được đắp, tạo ra vùng đất rộng 600 ha ôm lấy nông trường. Phía ngoài đê, sóng vẫn ngày đêm đưa phù sa tấp lên các bãi bồi để Rạng Ðông mãi vươn ra biển.

Có thể bạn quan tâm