* Thưa ông, liên quan đến vấn đề tranh chấp và giải quyết tranh chấp, khi Việt Nam là thành viên của WTO, cần phải lưu ý những gì, nhất là đối với DN?
- Thực ra các DN Việt Nam tham gia thương trường cũng lâu rồi, tuy nhiên ở mức độ rộng như tới đây tham gia vào WTO thì chắc chắn có nhiều vấn đề mới, nhiều vấn đề phức tạp sẽ nảy sinh. Chúng ta cũng không lạ gì các vụ kiện, nhất là sau Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA). Cho nên không chờ vào WTO mà chúng ta đã phải đương đầu với các vụ kiện, tuy nhiên, khi vào WTO có nghĩa chúng ta chấp nhận "cuộc chơi" cùng với 150 quốc gia, với tất cả các quy tắc luật lệ của "cuộc chơi" đó, đòi hỏi không chỉ DN mà Nhà nước cũng cần phải biết rõ luật của "cuộc chơi". Ở đây, tôi có ba lưu ý:
Trước nhất, đó là mối quan hệ giữa Nhà nước và các DN nước ngoài. Nhà nước ở đây không chỉ là mấy "ông" ở T.Ư, các tỉnh, thành mà có khi là mấy "ông" ở huyện, xã. Nếu Nhà nước ban hành các văn bản trái với cam kết quốc tế sẽ có nguy cơ bị DN khởi kiện. Việc áp dụng pháp luật cũng không được tuỳ tiện mà phải bảo đảm công khai, minh bạch bởi DN có thể kiện hành vi của cán bộ, công chức gây thiệt hại cho họ.
Thứ hai, mối quan hệ giữa DN Việt Nam khi ra thương trường nước ngoài. Thực ra chúng ta không thể chống được các vụ kiện, vấn đề là làm sao phân tán rủi ro. Thí dụ, DN phải đa dạng hóa thị trường, tránh tình trạng hàng hóa tăng lên đáng kể ở một vài thị trường vì như vậy rất có khả năng gây phương hại đến ngành sản xuất của nước đó và sẽ bị kiện. Đây là một bài toán khó và trong chừng mực nào đó chúng ta cũng phải chấp nhận rủi ro để đạt được cái tổng thể...
Mối quan hệ thứ ba là giữa Nhà nước với Nhà nước trong WTO. Từ trước đến nay chúng ta không có tiếng nói, nên đã có những chuyện mà ta cho là "bất công", "bất bình đẳng"... nhưng tới đây, khi đã là thành viên đầy đủ của WTO rồi thì sẽ có cơ chế giải quyết những chuyện như vậy. Cơ chế đó là gì? Trong WTO quy định rất rõ cơ chế tham vấn song phương (mặc dù BTA cũng nói về tham vấn song thực hiện vẫn chưa tốt).
Tham vấn trong WTO quy định rất rõ trình tự tham vấn, quy định việc giải quyết "hậu" tham vấn đều bắt đầu từ tham vấn, sau khi tham vấn rồi mà vẫn không đạt mục tiêu thì dùng các cơ chế sau tham vấn như thông qua các hình thức ban bồi thẩm, cơ quan phúc thẩm...
Ở đây, vai trò của Nhà nước và cộng đồng DN rất quan trọng. Trong quá trình đàm phán Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta thấy rằng vai trò của cộng đồng Hoa Kỳ rất quan trọng, gần như các DN Hoa Kỳ "chỉ thị" cho các nhà đàm phán buộc họ phải đàm phán như thế này hay đàm phán như thế kia. Chúng ta cũng phải có cơ chế như thế nào để cộng đồng DN Việt Nam gần như là lực lượng cung cấp thông tin, tư vấn cho các nhà đàm phán, cơ quan chính phủ, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để DN Việt Nam có tiếng nói trên các bàn đàm phán...
Còn một mối quan hệ nữa là quan hệ giữa DN với DN trong khuôn khổ WTO, cơ chế giải quyết sẽ như thế nào khi có tranh chấp? Thông thường vẫn giải quyết thông qua trọng tài: trọng tài Việt Nam và trọng tài quốc tế. Vấn đề là kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ trọng tài Việt Nam theo hướng bảo đảm công bằng, minh bạch, công khai phù hợp chuẩn mực quốc tế để hạn chế việc các DN mang vụ việc ra trọng tài nước ngoài giải quyết. Không phải việc đem vụ việc ra nước ngoài bất lợi cho các DN Việt Nam về mặt pháp lý mà xét xử bởi trọng tài trong nước sẽ hạn chế được rất nhiều chi phí, thời gian cho DN...
* Đường vào WTO không còn xa nữa, ông có cho rằng hệ thống xét xử của chúng ta còn có những bất cập?
- WTO là sân chơi của 150 quốc gia, ở đó có nhiều hệ thống luật khác nhau đan xen. Với sự đa dạng của các nhà đầu tư với những quan niệm pháp luật khác nhau như vậy rất dễ xung đột. Cho nên chúng ta cần có sự chuẩn bị: Thứ nhất, phải tuân thủ các luật chơi cơ bản của WTO, đó là mẫu số chung. Thí dụ, luật về chống bán giá của Việt Nam không được khác luật chống bán phá giá của WTO; về khai báo hải quan, về nguyên tắc phải giống quy tắc của WTO; về biện pháp trợ cấp thì biện pháp nào được phép, biện pháp nào không được phép; pháp luật xử lý vi phạm hành chính hay giải quyết các tranh chấp hành chính phải minh bạch ra sao...
Thứ hai, hệ thống xét xử và các thủ tục tố tụng phải công khai, minh bạch. Vì sau này sẽ áp dụng pháp luật nước ngoài và thông lệ quốc tế rất nhiều, nên từ hệ thống xét xử cho đến các thẩm phán đều phải thông thạo cả luật pháp nước ngoài nếu không sẽ lúng túng khi xét xử các tranh chấp nội dung ở Việt Nam nhưng đương sự chọn luật pháp nước ngoài...
* Trước đây khi Việt Nam bị kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa, có ý kiến cho rằng nếu Việt Nam là thành viên của WTO sẽ giải quyết được vụ kiện này triệt để hơn. Theo ông, khi Việt Nam là thành viên WTO, cơ hội sẽ nhiều hơn hay thách thức nhiều hơn ?
- Đương nhiên khi vào WTO, cơ chế bảo vệ lợi ích của quốc gia thành viên, cụ thể là lợi ích của DN của quốc gia đó sẽ được bảo đảm hơn. Đó là cái "được" lớn nhất. Cái "được" nữa là khi vào WTO, hệ thống pháp luật của chúng ta sẽ được hoàn thiện theo hướng minh bạch hơn, thông thoáng hơn, xóa bỏ được những cái mà chúng ta vẫn gọi là "bất hợp lý", "phi lý"... Đây vừa là nhu cầu nội tại của chúng ta xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế, nhưng vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Tất nhiên không có "cuộc chơi" nào chúng ta "được" cả. Chúng ta cũng bị thách thức rất lớn là mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt: nếu tiếp tục bảo hộ, tiếp tục hỗ trợ theo cái kiểu trước đây lúc đó sẽ nảy sinh vấn đề vi phạm các cam kết, đòi hỏi các cơ quan nhà nước cần phải thận trọng hơn khi ban hành các quyết định...
* Một hạn chế của các DN Việt Nam vẫn thường được nói đến là tính cộng đồng, tính liên kết yếu. Điều này bất lợi như thế nào khi các DN phải đương đầu với các vụ kiện?
- Hạn chế này cũng xuất phát từ chỗ chúng ta duy trì quá lâu nền kinh tế quan liêu bao cấp, quyền tự do kinh doanh của người dân bị hạn chế... Có người nói đó là bản tính, nhưng theo tôi không phải như vậy. Bởi vì một điều tra khác cho thấy người Việt Nam mình rất năng động, khi cần thiết họ biết đoàn kết lại để thành sức mạnh. Rõ ràng, dưới một áp lực lớn của cạnh tranh buộc họ phải liên doanh, liên kết lại. Tất nhiên chúng ta không loại trừ một DN nhỏ, nếu nó cơ động, linh hoạt, nó tìm được chỗ đứng trong thị trường thì cần khuyến khích phát triển, nước nào cũng vậy thôi. Còn khi cần thiết, phải hình thành DN lớn, vì nhu cầu tồn tại, vì lý do cạnh tranh hay do sự phát triển của thị trường thì tôi cho rằng các DN Việt Nam cũng có thể liên doanh, liên kết lại. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là phải xây dựng cho được một khung pháp luật để bảo đảm sự liên kết đó, bảo đảm lợi ích của các bên liên kết, như là Luật DN chẳng hạn...
Phải có khung pháp luật để bảo đảm sự liên kết đó đồng thời cũng phải có cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, minh bạch. Chính vì vậy, cả hệ thống tòa án, cả hệ thống trọng tài và cả hệ thống báo chí phải hết sức ủng hộ, hỗ trợ DN, để một mặt chúng ta có những "chiếc thuyền" con đánh bắt ven bờ nhưng cũng phải có những "chiến hạm" ra biển lớn...
* Xin cảm ơn ông!