Chuyện “vượt rào” trong đào tạo ở Trường đại học Y-Dược Thái Bình

Sau 55 năm thành lập, Trường đại học Y-Dược Thái Bình đã có bước trưởng thành, khẳng định được vị thế của một trường đại học chuyên ngành y dược tại vùng châu thổ sông Hồng. Để có kết quả nêu trên là nỗ lực của tập thể các thế hệ cán bộ, lãnh đạo nhà trường, trong đó có những quyết sách đương đầu với khó khăn, thách thức, chuyển hướng trong đào tạo... Những kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị.
0:00 / 0:00
0:00
Sinh viên thực tập tại phòng thực tập tiền lâm sàng của Trường đại học Y-Dược Thái Bình.
Sinh viên thực tập tại phòng thực tập tiền lâm sàng của Trường đại học Y-Dược Thái Bình.

Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20, trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc đổi mới, Trường đại học Y Thái Bình (nay là Trường đại học Y-Dược Thái Bình) đứng trước nhiều khó khăn, thử thách.

Thực hiện cơ chế quản lý mới, chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường giảm mạnh, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, sinh viên gặp nhiều khó khăn, thậm chí có những lúc đã đặt ra việc tồn tại hay không tồn tại của một trường đại học đã gắn bó hơn 20 năm với vùng đất lúa.

Khó khăn chồng chất khó khăn đặt ra cho ban lãnh đạo nhà trường, đứng đầu là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Quang Hoành nhiệm vụ tìm giải pháp ổn định tình hình và hướng đi mới cho trường.

Đúng lúc đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII của Đảng (ngày 10/6/1993) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn ra đời đã mở ra hướng đi rất mới cho trường, đó là, vận dụng chuyển hướng đào tạo nguồn nhân lực y tế phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã hội nông thôn.

Đây vừa là điểm tựa cho sự tồn tại của trường trong tình hình mới, vừa là cách để trường đền đáp lại những người nông dân từng đùm bọc, chở che cán bộ, sinh viên nhà trường trong những năm tháng chiến tranh gian khó. Chủ trương đổi mới toàn diện hoạt động của nhà trường cho phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 và tình hình thực tiễn của nhà trường đã được Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.

Trường đã tiến hành chuyển đổi mục tiêu đào tạo theo hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế cộng đồng hướng tới nông nghiệp, nông thôn và nông dân (tam nông). Tức là chuyển từ mục tiêu đào tạo bác sĩ đa khoa tuyến huyện sang mục tiêu đào tạo bác sĩ phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân tuyến cơ sở; đào tạo bác sĩ phục vụ cộng đồng tại cơ sở (xã, phường, thị trấn), tiền đề cho việc dần hình thành hệ thống “bác sĩ gia đình”.

Việc chuyển đổi mục tiêu đào tạo có ý nghĩa quan trọng. Về y tế, đó là nhằm mục tiêu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ngay từ ban đầu ở cộng đồng, hạn chế việc quá tải không cần thiết tại các cơ sở tuyến trên; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng sức khỏe của người dân phù hợp sự phát triển của mô hình, cơ cấu bệnh tật trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Về công tác quản lý, việc đổi mới mục tiêu đào tạo là cơ sở để đổi mới toàn diện các hoạt động khác của nhà trường. Đây là một hướng đi rất mới, vừa là đầu vào nhưng cũng là đầu ra của trường, chủ trương này tạo ra “đặc sản” riêng có của trường trong cả công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ, tạo bước ngoặt, đột phá không chỉ giữ vững được sự ổn định mà còn tạo nền móng cho nhà trường phát triển sâu, rộng, vững chắc sau này.

Với quan điểm lấy sinh viên làm trung tâm của tiến trình đào tạo, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo; đào tạo những gì xã hội cần chứ không phải dạy những gì trường có sẵn, nhà trường tiến hành đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cả nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo. Trong đó, tập trung xây dựng khung chương trình chuẩn với 80% nội dung (cứng) về chuyên môn theo đúng khung chương trình của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đồng thời, lựa chọn thêm 20% nội dung (mềm) liên quan trực tiếp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ban đầu tại cơ sở để đưa vào chương trình đào tạo như: xây dựng hệ thống y tế xã; vấn đề vệ sinh môi trường làng, xã; nước sạch nông thôn; kế hoạch hóa gia đình; các bệnh do ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa...

Bên cạnh đó, trường bổ sung thêm một số môn học bổ trợ như: pháp luật đại cương, tăng cường ngoại khóa cho sinh viên kiến thức về văn hóa làng xã, thuần phong mỹ tục, kinh tế y tế... giúp bác sĩ khi ra trường có đủ kỹ năng giao tiếp, năng lực tổ chức phong trào tại cộng đồng.

Nhà trường cũng là một trong những đơn vị đi đầu trong việc xây dựng đơn vị giảng dạy tích cực, áp dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến qua mô hình học cụ, máy chiếu overhead, video, labo, giáo án mới để nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, khắc phục tình trạng học chay, giảng độc thoại; xây dựng ngân hàng câu hỏi đề thi, đổi mới phương pháp lượng giá kết quả đào tạo.

Mặt khác củng cố, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập tại các cơ sở thực hành ở Hải Dương, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình; xúc tiến ý tưởng thành lập Trung tâm thực hành mẫu và Bệnh viện thực hành theo mô hình viện-trường...; tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của một số giáo sư đầu ngành về sản, nhi, nội... để mở mã ngành đào tạo chuyên khoa sơ bộ, chuyên khoa cấp I ở một số bộ môn có đủ điều kiện...

Những vấn đề này, bây giờ trở thành bình thường nhưng cách đây 30 năm lại là những vấn đề rất mới, không dễ chuyển đổi và thực hiện ngay được, nhất là trong điều kiện nhà trường ở xa Trung ương; đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ sau đại học còn mỏng, luôn phải lo lắng về cơm áo, gạo, tiền.

Trong công tác nghiên cứu khoa học, nhà trường đã đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xoay quanh mục tiêu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ban đầu cho nhân dân vùng “tam nông”; đổi mới quản lý nghiên cứu khoa học từ kế hoạch định sẵn sang theo nhu cầu và hợp đồng; gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhà trường; chú trọng xây dựng phong trào tuổi trẻ sáng tạo tham gia nghiên cứu khoa học trong cán bộ và sinh viên.

Trong đó, tập trung vào nghiên cứu đặc điểm sinh thái, cơ cấu bệnh tật của vùng châu thổ sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ và hợp tác quốc tế với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới tại Hà Nội, Khoa Nghiên cứu chăm sóc sức khỏe quốc tế (IHCAR) của Đại học Karolinska (Thụy Điển)... được triển khai hiệu quả ở cộng đồng.

Với những đột phá đó, số lượng và vùng tuyển sinh của trường ngày càng mở rộng, không còn bó hẹp trong một số tỉnh duyên hải phía bắc (Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh, Thái Bình) như trước đây; hình thức đào tạo cũng phát triển phong phú như dài hạn (chính quy), ngắn hạn (chuyên tu), sau đại học (chuyên khoa sơ bộ, chuyên khoa cấp I), đào tạo lại, đào tạo liên tục, đào tạo theo địa chỉ (cử tuyển) cho các địa phương miền núi, trung du và một số bộ, ngành có nhu cầu, nhất là về các chuyên khoa y học công cộng, trực tiếp phục vụ mục tiêu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ban đầu cho nông dân.

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với những thành tựu chung của đất nước, Trường đại học Y-Dược Thái Bình đã có bước trưởng thành vững chắc, khẳng định được vị thế của một trường đại học chuyên ngành y dược vùng châu thổ sông Hồng, một đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, chiếc nôi đầu tiên đào tạo bác sĩ hướng tới “tam nông”.

Những bài học kinh nghiệm về một tập thể đoàn kết, đồng cam, cộng khổ; về tinh thần chủ động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung để hiện thực hóa một cách khoa học chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn sinh động ở cơ sở; về những người lãnh đạo luôn tâm huyết, trách nhiệm và đầy trí tuệ, bản lĩnh trước những thời khắc khó khăn, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và luôn là những tài sản quý, là hành trang, động lực quan trọng giúp trường ổn định, vững vàng vượt qua thử thách trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.