Chuyển tiền vào miền Nam trong những năm kháng chiến

Ngày từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, theo yêu cầu của Trung ương Cục, của Khu ủy Khu V và Trị Thiên, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã bắt đầu phải lo chuyển tiền vào miền Nam. Số tiền đó đương nhiên phải là tiền do chính quyền Sài Gòn phát hành hoặc USD. Biện pháp đầu tiên là dùng ngân sách Nhà nước để mua các loại tiền trên tại thị trường nước ngoài chủ yếu là lại Hồng Công.

Những năm 50 - 60, số tiền cung cấp cho cách mạng miền Nam trung bình một năm khoảng 30 triệu đồng tiền Sài Gòn (tương đương 1 triệu USD). Khi phong trào Đồng khởi toàn miền Nam phát triển mạnh thì nhu cầu tiền ở miền Nam ngày càng tăng và trở thành một nhu cầu khẩn cấp. Bộ Chính trị Trung ương Đảng giao cho Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Hùng đặc trách vấn đề kinh tài chi viện cho miền Nam. Ông Hùng đã đề xuất một quyết định mang tính lịch sử, đó là: lập riêng ở miền Bắc một "quỹ ngoại tệ đặc biệt" lấy từ nguồn viện trợ quốc tế để chi viện trực tiếp cho kháng chiến miền Nam. "Quỹ ngoại tệ đặc biệt" là một phòng riêng thuộc Cục Ngoại hối có biệt danh là B29 trong Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để bảo đảm bí mật "Phòng quỹ ngoại tệ đặc biệt" hoạt động theo sự chỉ đạo đơn tuyến, biên chế gọn nhẹ, nhưng cán bộ phải được chọn lựa kỹ về năng lực, phẩm chất và nguồn gốc. Người điều hành trực tiếp là ông Mai Hữu Tích, Phó cục trưởng Cục Ngoại hối Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Khi ông Phạm Hùng trở về miền Nam lãnh đạo T.Ư Cục thì sự chỉ đạo trực tiếp B29, T.Ư giao cho ông Lê Thanh Nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ đảm trách.

Để chi viện cho miền Nam, B29 đã dùng hai mật danh AM và FM để làm phương thức hoạt động. AM là phương thức chuyển tiền mặt, FM là phương thức chuyển khoản. Nhu cầu chi tiêu tiền cho chiến trường miền Nam gồm nhiều loại tiền, tiền Sài Gòn và USD, ngoài ra để chi tại các nước láng giềng là Campuchia, Lào, Thái-lan, Ngân hàng cần một lượng tiền mặt là đồng riel, baht, kíp. Ta phải mua gom từng loại một. Việc gom tiền được thực hiện bởi một cơ sở ngân hàng ở Hồng Công. Cơ sở này tuy không lớn nhưng rất tin cậy có mật danh là "Anh Bảo". Tiền mặt do "Anh Bảo" mua gom được chuyển về một cơ sở ở Quảng Châu (Trung Quốc). Từ đây qua đường cơ yếu, Bộ Ngoại giao thông báo cho B29, cử người sang Quảng Châu đưa về Hà Nội.

Một cơ sở khác là Vietcombank tại Paris, chuyển đổi tiền từ các ngoại tệ khác sang USD, thông qua con đường ngoại giao chuyển tiền từ Paris qua Moskva về Hà Nội. Tiền chuyển về được cất giữ tại tầng hầm Ngân hàng Nhà nước T.Ư, 49 Lý Thái Tổ, Hà Nội do B29 quản lý. Khi có lệnh chuyển vào Nam thì đơn vị C100, thuộc Đoàn 559 - Tổng cục Hậu cần làm thủ tục ký nhận và đóng vào thùng "đặc chủng" để vận chuyển. Ông Phạm Bạn - cán bộ Cảnh vệ (Bộ Công an), người có vinh dự được trực tiếp bảo vệ những thùng hàng đặc biệt đó cho biết: Thùng "đặc chủng" là những hòm sắt dài độ 50 cm, dày khoảng 20 cm, nặng chừng 12kg, bên trong lót một lớp thiếc nặng chừng 3kg". Số hàng này phần lớn đi theo tuyến đường Trường Sơn hoặc bằng những chuyến tàu không số trên biển. Còn một số rất ít được chuyển bằng "Vali ngoại giao" qua đường hàng không Hà Nội - Phnom Penh, hoặc Hà Nội - Quảng Châu - Phnom Penh.

Nhiều chuyến vận chuyển tiền của cán bộ, chiến sĩ đã trở thành huyền thoại. Ông Nguyễn Văn Xế, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn Vận tải biển 248, Liên khu V kể lại: "Ông được cấp trên giao nhiệm vụ chuyển 4kg vàng, 2 triệu đồng tiền và 26 thùng tín phiếu vào Nam. Tổ của ông có bốn người nhưng ba người đã hy sinh trên đường do sóng to gió lớn. Một mình ông sống sót nhưng ông vẫn bảo vệ và giữ được hàng đặc biệt đưa đến đích an toàn". Ông Trần Dũng (Bảy Cao) ở Mộ Đức, Nghĩa Bình, một mình đã gùi được 653kg hàng đặc biệt gồm tiền, vàng cho cách mạng, nhiều lần bị địch phục kích nhưng ông vẫn mưu trí, dũng cảm vượt qua, với quyết tâm còn người, còn hàng, không để hàng mất hoặc rơi vào tay giặc.

Một phương thức khác chi viện cho miền Nam là cách chuyển khoản (FMAF), có thể nói đây là cách làm của ý chí Việt Nam thể hiện sự tinh tế dưới chỉ đạo của Trung ương Đảng. Một cơ sở bí mật của cách mạng được đặt ngay trong một ngân hàng ngụy ở Sài Gòn. Người đảm trách là ông Lữ Minh Châu (bí danh N2683). N2683 lấy tiền ngay tại Ngân hàng Sài Gòn. Nhà cung cấp tiền là những chủ doanh nghiệp lớn. Theo sự thỏa thuận với phía Việt Nam, họ rút tiền mặt từ ngân hàng cung cấp cho cách mạng nhưng với danh nghĩa là để sản xuất kinh doanh. Đổi lại, họ được trả bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

Cách làm chuyển khoản ưu điểm là chuyển được số tiền lớn, nhanh trong một ngày thay vì cho nhiều ngày tháng như cách chuyển tiền mặt (AM) đầy rủi ro trên đường. Nghiệp vụ ngân hàng ở đây là chuyển tiền bằng điện hối hoặc bằng séc cầm tay, thanh toán tay ba - người chuyển tiền, người giao, người nhận. B29 ở Hà Nội chuyển tiền trả thay cho cơ quan ở chiến trường. Tiền mặt các loại vào miền Nam, tất cả đều được tập trung ở các vùng căn cứ kháng chiến do các cơ quan Ngân tín của Đảng trực tiếp quản lý. Tổng kho quỹ là C32 thuộc Ban Kinh tài của T.Ư Cục miền Nam trực tiếp nhận các nguồn tiền do B29 từ Hà Nội chuyển vào hoặc nguồn tiền từ Ngân hàng Sài Gòn do N2683 cung cấp, từ đó phân phối ở các vùng theo yêu cầu của cuộc kháng chiến. Theo tổng kết với hai phương thức chuyển tiền, đã chuyển được tất cả 477.175.670 USD, trong đó phương thức AM là 315.341 .787,75 USD; phương thức FM là 161.833.883,14 USD, phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam.

Ba mươi năm đã trôi qua, nhìn lại chặng đường vận hành của đồng tiền và khối lượng tiền chuyển vào miền Nam càng thấy đây là đóng góp không nhỏ của những cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ kinh tài, thể hiện ý chí và lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, trong đó không ít người đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Có thể bạn quan tâm