Kỷ niệm 55 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh và Ngày Truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19-5-1959/19-5-2014)

Chuyện mở đường trên đỉnh dốc Ba Thang

NDĐT- Dù tuổi đã cao nhưng nhắc đến công trình dốc Ba Thang nằm trên đường 20 Quyết Thắng, Thiếu tướng Hoàng Dũng (nguyên Chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, hiện đang sinh sống tại quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh) vẫn hào sảng tái hiện những ngày tháng hào hùng mở con đường lịch sử này ở Trường Sơn.

Thiếu tướng Hoàng Dũng, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu đang kể lại chuyện ở dốc Ba Thang.
Thiếu tướng Hoàng Dũng, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu đang kể lại chuyện ở dốc Ba Thang.

Cuối năm 1965, trục đường sang Tây Trường Sơn bị máy bay địch đánh phá ác liệt làm cho việc vận chuyển cơ giới của ta tổn thất nhiều. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu thống nhất với Bộ Giao thông vận tải mở một trục đường mới qua đèo Phu La Nhích, qua ngầm Tà Lê, còn gọi là đường 20 Quyết Thắng. Trận mở đầu, công binh đột phá vào một quả núi đá cao hàng chục mét được bộ đội gọi là dốc Ba Thang, cách phà Xuân Sơn hơn 10km, là cửa ngõ của tuyến đường. Sở dĩ bộ đội gọi dốc Ba Thang vì khi leo lên đục lỗ đặt thuốc nổ để phá núi, chiến sĩ ta phải nối ba chiếc thang lại mới với tới nơi. Để đánh đổ điểm cao này, Trung đoàn Công binh 10 đã dùng 900 lượng thuốc nổ (mỗi lượng 10kg) bằng chín tấn, đánh trong 15 ngày (mỗi ngày đánh ba lần, mỗi lần từ 60 đến 90 lượng thuốc nổ) mới san bằng được một đoạn của quả núi đá. Trong 15 ngày đó, năm ngày đầu được yên ả vì địch chưa phát hiện nhưng từ ngày thứ sáu trở đi, chúng trinh sát thấy bụi đá nên tập trung đánh dọc suốt đội hình ta. Từ đây, cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch diễn ra suốt ngày đêm, từ khi bắt đầu đến khi đã thông xe.

Thời điểm đó, tôi mang hàm Trung tá, là sĩ quan của Cục Tác chiến (thuộc Bộ Tổng Tham mưu) được cử vào kiểm tra công trình này. Khi chúng tôi kiểm tra làm việc với Bộ Tư lệnh 559 để đánh giá khả năng vận chuyển mùa mưa 1966 và mùa khô 1967, anh em báo cáo rằng công binh phải đu người trên chiếc thang cao vun vút, chằng dây bảo hiểm, tay cầm búa, tay cầm chòong, miệng đeo khẩu trang. Mỗi người đục một tiếng đồng hồ được một lỗ thì xuống nghỉ để người khác thay. Đợt đầu, ta đánh 30 lượng thuốc nổ (300kg) mà tảng đá mới mòn đầu chưa được một mét. Thật kinh hoàng khi nghĩ đến biết bao nhiêu công sức chiến sĩ bỏ ra để “hạ” dốc Ba Thang.

Kiểm tra xong, chúng tôi lần lượt vượt qua các trọng điểm : cua chữ A, đèo Phu La Nhích, ngầm Tà Lê mà anh em công binh và lái xe gọi là trọng điểm APT. Đoạn đường này phải đi trong bốn đêm, có đêm cả ba anh em trong đoàn và đồng chí lái xe vật lộn mãi mà chỉ nhích được 4km. Suốt chặng đường, chúng tôi thực mắt thấy và sống trong khung cảnh hoạt động cả đêm và ngày của những con người Trường Sơn một cách cụ thể nhất. Nhiều đoạn đường lầy hàng nửa cây số, anh em công binh và thanh niên xung phong phải chặt cây xếp ngang và kẹp chặt xuống mặt đường cho xe qua mà anh em gọi là đặt “rông-đanh”. Có đoạn qua sườn núi rất trống trải ở đèo Phu La Nhích, anh em phải đóng cọc, đan liếp treo lên, gài lá ngụy trang cả phía bên trên và phía sườn cho xe chạy bên trong… được kín đáo. Lại có nhiều đoạn đường địch thả bom từ trường, mìn vướng nổ, bom phá nhằm vừa phá đường vừa ngăn chặn các đoàn xe vận tải nên ngay ban ngày anh em công binh phải bò sát đất, dùng cây trúc dài có cạnh để quét mìn vướng nổ, dùng xe cảm ứng điện từ phá bom từ trường để kịp tối đến cho xe vận tải đi qua.

Một đêm, tôi định đi từ Phong Nha qua Lào nhưng vì đường xấu nên tôi dừng chân lại gần đèo Phu La Nhích nghỉ lại một đêm bên cạnh một đại đội nữ thanh niên xung phong. Ghé qua và chuyện trò với chị em, tôi rất xúc động khi nghe chị em nói rằng: “Thủ trưởng có giấy trắng không? Có thể cho chúng em một ít để chúng em viết thư?”. Vì lúc đó tôi không mang nhiều giấy trắng nên tôi đã xé những tờ giấy chưa viết trong quyển sổ công tác đưa lại cho chị em. Không những vậy, khi chia tay, các chị em còn xin tôi mùng. Thấy tôi ngạc nhiên, họ nói “thủ trưởng đi rồi về, mùng hãy để lại để chúng em dùng trong những “ngày phụ nữ” vì trong đây chẳng có vải lót, chẳng có bông băng, bông gòn, gạc y tế gì cả!”. Thật là đau lòng và chúng tôi đã gửi lại tất cả mùng mang theo trong ba lô cho chị em.

Mùa khô năm 1967-1968, địch tập trung đánh phá vô cùng ác liệt ở trọng điểm dốc Ba Thang. 24/24 giờ, bầu trời không khi nào vắng tiếng máy bay. Ban ngày, máy bay L19, OV20 thường xuyên lượn lờ, khi phát hiện được xe, chúng bắn pháo hiệu (hỏa mù) cho phản lực đến ném bom. Ban đêm cả máy bay C47 và đặc biệt là máy bay AC130 có trang bị khí tài điện tử hiện đại săn đuổi đoàn xe, bắn đạn 20 ly, 40 ly. Mà đâu chỉ né bom đạn, tại trọng điểm ATP còn có nhiều đoạn đường cực kỳ khó đi. Mùa mưa trơn trượt khó lên dốc, cua chữ A đường gấp khúc, phía dưới vực sâu (đường chỉ một làn xe), phía trên là dốc đứng. Cánh lái xe chở hàng không cẩn thận thì sẽ có hai nguy hiểm luôn chực chờ: Một là rơi xuống vực sâu; hai là phải mở đèn sáng mới qua được ngầm (nếu địch phát hiện đèn thì chúng sẽ bỏ bom ngay). Chính những lúc như thế này, chúng tôi mới thấy tình thương yêu đồng đội thực sự gắn bó.

Hơn nửa thế kỷ rồi, có thể nói đối với chúng tôi, những người từng sống và chiến đấu trong thời điểm ấy thì cảm xúc của một “Trường Sơn như vừa hôm qua” là không thể nào quên. Đó là những khi phải nén đau thương chứng kiến đồng đội hy sinh trước mắt, hay là những giây phút tự hào vượt lên đỉnh dốc Ba Thang để nhìn về một ngày giải phóng miền nam đang ở rất gần!

Có thể bạn quan tâm