Sự nổi trội của thẻ chíp
Việc thay thế thẻ từ bằng thẻ chíp dựa trên các tính năng nổi bật của thẻ chíp, đặc biệt là thẻ chíp theo chuẩn EMV được kỳ vọng mang lại nhiều lợi ích hơn cho người sử dụng. EMV là chuẩn thẻ thanh toán thông minh do ba liên minh thẻ lớn nhất thế giới là Europay, Master Card và Visa đưa ra. Các liên minh này đã khuyến cáo các nước về việc cần thiết phải chuyển đổi từ thẻ từ có tính bảo mật thấp sang thẻ chíp có tính năng bảo mật cao hơn rất nhiều. Khuyến cáo này được đưa ra từ năm 2004, sau những con số thiệt hại do gian lận thẻ ngày càng lớn. Hiện tỷ lệ gian lận thẻ trong tổng số thanh toán thẻ tại Việt Nam chỉ là 0,15%, trong khi tỷ lệ này trung bình trên thế giới là 0,6%. Chính vì thế, sau mốc thời gian quy định, nếu ngân hàng nào còn sử dụng thẻ từ, có thể chịu phạt lên tới 50 nghìn USD/năm tính theo các vụ gian lận thẻ. Mức phạt này áp dụng cho cả ngân hàng phát hành thẻ và ngân hàng chấp nhận thẻ.
Thẻ chíp (hay còn gọi là thẻ thông minh) có thể lưu trữ rất nhiều dữ liệu. Nếu với thẻ từ hoạt động sao chép thông tin khá dễ dàng, tính bảo mật không cao thì với thẻ thông minh, người sử dụng có thể nhập tất cả các thông tin vào thẻ mà không lo sợ bị sao chép, mất dữ liệu. Thẻ thông minh cũng giống như một máy tính, cũng có hệ điều hành như hệ điều hành Window, không dễ dàng mà có thể truy cập vào hệ điều hành này. EMV đã đưa ra các tiêu chuẩn, yêu cầu tối thiểu cho các hệ thống thanh toán thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ dựa trên công nghệ nêu trên. Các đặc tả EMV nhằm bảo đảm sự tương thích giữa các mô hình thanh toán, bảo đảm thiết bị đầu cuối.
Về mặt kỹ thuật, đây là một loại thẻ nhựa có gắn chíp điện tử, khả năng kết nối với máy tính của loại chíp này cho phép thẻ thực hiện được nhiều lựa chọn thanh toán và dịch vụ. Một thẻ chíp có thể sử dụng như là một thẻ ngân hàng, chứng minh thư, thẻ tín dụng, cũng có thể dùng để trả phí giao thông hay lưu trữ thông tin về y tế, bảo hiểm xã hội, thông tin cá nhân... Trên dải rộng của thẻ từ chỉ có ba rãnh từ, trong khi trên dải hẹp hơn chỉ có hai rãnh. Ngoài các thông tin để phục vụ việc rút tiền, tài khoản của khách hàng không thể ghi thêm thông tin nào khác trên thẻ từ nên nó "chật chội" hơn so với thẻ chíp. Với xu hướng hội tụ và tích hợp nhiều ứng dụng trên một thiết bị thanh toán như hiện nay, thẻ từ khó có thể đáp ứng những dịch vụ gia tăng, vốn là những điểm cạnh tranh chính trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, thẻ chíp còn có khả năng thực hiện các giao dịch trực tuyến. Cùng với sự phát triển công nghệ thông tin, tính năng này góp phần tạo thuận tiện hơn cho khách hàng khi sử dụng.
Khả năng đáp ứng của các ngân hàng
Theo đánh giá của các chuyên gia, việc Việt Nam xem xét ban hành công nghệ thẻ chíp sẽ là một giải pháp để thay thế thẻ từ và phát triển thương mại điện tử. Do đó, muốn phát triển, các ngân hàng sẽ phải tính đến việc chuyển đổi, từng ngân hàng phải tính toán chi tiết cho phù hợp điều kiện của mình.
Thực tế cho thấy, việc chuyển sang thẻ chíp không chỉ đơn thuần là thay một chiếc thẻ mà ngân hàng phải nâng cấp thiết bị chấp nhận thẻ, nâng cấp hệ thống chuyển mạch nội bộ của từng ngân hàng. Do đó, nâng cấp hệ thống phát hành thẻ thì bản thân hệ thống chuyển mạch của công ty cũng phải nâng cấp. Tổng Giám đốc Banknetvn Ngô Ngọc Ðông cho biết, hiện nay, thị trường thẻ phát hành ra rất lớn nhưng để chuyển đổi tất cả các thẻ từ đang sử dụng sang thẻ chíp ngay lập tức thì chắc chắn sẽ có khó khăn, không phải ngân hàng nào cũng có thể làm được. Việc chuyển đổi này cần có lộ trình cụ thể. Bất cứ ngân hàng, công ty hay doanh nghiệp nào cũng cần phải khảo sát, nghiên cứu và xây dựng các yêu cầu liên quan. Trên cơ sở đó, có thể đánh giá ảnh hưởng của thẻ chíp. Về lộ trình chung, trong vòng từ hai đến ba năm tới các ngân hàng sẽ hoàn thiện việc chuyển đổi.
Theo các chuyên gia, để quá trình chuyển đổi được nhanh chóng thì nỗ lực của từng ngân hàng sẽ là chưa đủ mà cần phải có chỉ đạo tầm vĩ mô. Trên cơ sở đó, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán sẽ tiến hành thực hiện đồng bộ, thống nhất và giảm thiểu được chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tiến hành nghiên cứu phân bổ lại mạng lưới ATM/POS cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách hàng, nhằm tiết kiệm chi phí cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nói riêng cũng như đầu tư của xã hội nói chung.
Thùy Vân
| Theo thống kê từ NHNN, đến cuối tháng 6-2009, toàn thị trường đã có 8.800 ATM và 28.300 POS, hơn 17 triệu thẻ đang lưu hành với 176 thương hiệu thẻ do 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát hành. Các ngân hàng tham gia đang chuyển mạch thanh toán qua hệ thống Smartlink và Banknetvn, hơn 80% số thẻ và ATM có thể giao dịch qua hai hệ thống này. Hiện phần lớn số thẻ ATM tại Việt Nam đều áp dụng công nghệ bảo mật bằng từ tính. |