Nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế dưới tán rừng
Theo báo cáo của Tổng cục lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), các tỉnh trung du miền núi phía bắc gồm 17 tỉnh có tổng diện tích rừng là trên 5,731 triệu ha, chiếm 39,6% tổng diện tích rừng toàn quốc; trong đó, rừng tự nhiên khoảng 3,962 triệu ha, diện tích rừng trồng là 1,796 triệu ha.
Các loài cây trồng chủ yếu là keo, bạch đàn, thông, mỡ, quế... Tính đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng vùng trung du miền núi phía bắc khoảng 52,6%.
Những năm qua, ngành công nghiệp chế biến gỗ tại các tỉnh trung du miền núi phía bắc là ngành hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt trên 13%/năm. Năm 2020, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 7,9 triệu m3 gỗ, ước đạt khoảng 9.480 tỷ đồng/năm.
Các tỉnh có 747 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản; tổng nguồn thu dịch vụ môi trường rừng giai đoạn 2011-2020 hơn 7.750 tỷ đồng, riêng năm 2020 thu 1.239 tỷ đồng.
Các tỉnh trung du miền núi phía bắc còn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái với một số địa điểm đặc trưng thu hút du khách như: Vườn quốc gia Hoàng Liên có đỉnh Fansipan; Vườn quốc gia Bái Tử Long-vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới; Khu bảo tồn thiên nhiên Mường La, Tà Xùa, Sốp Cộp và Xuân Nha thuộc tỉnh Sơn La...
Qua đó, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách du lịch đến tham quan; ước tính tổng chi tiêu của du khách khoảng 620 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và thu ngân sách của các tỉnh.
Chia sẻ về thực tế khai thác tiềm năng để phát triển kinh tế dưới tán rừng tại địa phương, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu, Giàng Páo Mỷ, khẳng định thời gian qua: Lai Châu xác định phát triển rừng bền vững là nhiệm vụ quan trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả công tác quản lý và bảo vệ, phát triển rừng.
Tỉnh cũng đã đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng thông qua việc hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với các loại cây có giá trị kinh tế cao và chú trọng nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Đến nay, nhiều loại dược liệu quý hiếm được nhân dân bảo tồn và phát triển như: sâm Lai Châu, cây bảy lá một hoa, lan kim tuyến, tam thất, đương quy, thảo quả, hà thủ ô. Nhờ đó, tỷ lệ che phủ rừng từng năm được nâng lên, đạt gần 51%; trên 70% số hộ dân tham gia trồng rừng và bảo vệ rừng có nguồn thu nhập ổn định.
Tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về rừng
Khẳng định khu vực trung du miền núi phía bắc có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế dưới tán rừng, tuy nhiên, theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phùng Đức Tiến, hiện những tiềm năng này vẫn chưa được khai thác sử dụng theo hướng đa mục đích. Diện tích rừng trồng mặc dù trữ lượng gỗ lớn, nhưng số lượng cơ sở chế biến sâu còn ít. Chi phí vận chyển logistics tăng, giảm giá trị cạnh tranh.
Lâm sản ngoài gỗ đã hình thành một số vùng trồng nguyên liệu tập trung như quế, hồi với diện tích và sản lượng lớn và các loài lâm sản ngoài gỗ khác (dược liệu)… nhưng còn manh mún, thiếu quy hoạch, sản lượng thấp, thiếu các cơ sở chế biến bảo đảm chất lượng, chế biến sâu. Thiếu các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm tinh chế có giá trị giá tăng cao mà chủ yếu là các sản phẩm thô.
Là khu vực có nhiều hệ sinh thái rừng đặc trưng, đa dạng sinh học cao, gắn với đa dạng về văn hóa, bản sắc của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, du lịch sinh thái trong rừng còn hạn chế và chưa thu hút được khách du lịch. Chưa tạo được nguồn thu cho các chủ rừng.
Cũng theo ông Phùng Đức Tiến, nhờ có chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mỗi năm, các tỉnh khu vực Tây Bắc như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La thu được nguồn kinh phí lớn từ các nhà máy thủy điện để bảo vệ rừng tự nhiên. Tuy nhiên, còn nhiều dịch vụ khác vẫn chưa được khai thác như: dịch vụ cung cấp nước sinh hoạt, nước công nghiệp; hấp thụ CO2.
Việc sử dụng hệ sinh thái rừng còn rất đơn lẻ, chưa chú trọng theo hướng đa mục đích, đa giá trị. Do vậy, chưa khai thác được hết các tiềm năng, giá trị nhiều mặt của rừng, đặc biệt là các sản phẩm gắn với đặc trưng văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Để kinh tế dưới tán rừng phát triển, đáp ứng với yêu cầu đổi mới của đất nước, tương xứng với tiềm năng của rừng và đất rừng đặc biệt đối với những tỉnh có diện tích đất lâm nghiệp lớn. Các chuyên gia cho rằng, cần đổi mới tổ chức quản lý ngành, tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về lâm nghiệp từ Trung ương đến địa phương, cải cách hành chính và đổi mới chính sách phù hợp, kịp thời bảo đảm cho người dân ở trong và gần rừng thu nhập ổn định từ diện tích đất lâm nghiệp của mình.
Khẩn trương hoàn thành việc quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia. Lập phương án kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chi tiết, cụ thể đến cơ sở theo chức năng của từng loại rừng. Rà soát thực hiện việc giao đất gắn với giao rừng để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài để mọi người dân sống gần rừng có đất sản xuất, bảo đảm cuộc sống.
Từ thực tế địa phương, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Kạn đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành hướng dẫn cụ thể đối với việc thực hiện các mô hình phát triển kinh tế dưới tán rừng tự nhiên để làm cơ sở triển khai thực hiện. Đồng thời, tiếp tục quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tỉnh Bắc Kạn được hưởng các chính sách, các chương trình dự án hỗ trợ phát triển lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng.