Chính sách của Hoa Kỳ với hàng dệt may nhập khẩu

Buôn bán quốc tế hàng dệt và may mặc là một lĩnh vực béo bở với trị giá nhiều tỷ USD lợi nhuận mỗi năm. Hoa Kỳ là một trong những thị trường tiêu thụ chính của hàng dệt may thế giới. Năm 2002, tổng kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm dệt may của Hoa Kỳ là 77,3 tỷ USD, năm 2003 là 82,9 tỷ USD, năm 2004 là 89,5 tỷ USD và năm 2005 là 95,7 tỷ USD. Hiểu về chủ trương, chính sách của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nhập khẩu, các DN có thể rút ra được thuận lợi, khó khăn trước mắt và lâu dài khi thâm nhập thị trường tiềm năng nhưng cũng rất “gai góc” này.

1. Điều tiết hàng dệt may nhập khẩu thông qua tác động tới lượng và giá

Bảo hộ sản xuất nội địa để giữ được công ăn việc làm và ổn định một bộ phận xã hội luôn nằm trong những mục tiêu hàng đầu của chính quyền Hoa Kỳ qua các thời kỳ, theo đó kiểm soát nhập khẩu nhằm điều tiết nguồn cung trên thị trường là biện pháp có ảnh hưởng lớn tới phát triển sản xuất trong nước, bất kể ngành nào.

Tìm hiểu quá trình vận động các chính sách của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may từ góc độ quản lý nhập khẩu, có thể thấy:

- Cho tới trước ngày 1-1-2005, thời điểm hạn ngạch được bãi bỏ đối với tất cả các nước thành viên của WTO, Hoa Kỳ có tới 46 Hiệp định khác nhau về hàng dệt may theo tinh thần của Hiệp định về Hàng dệt và May mặc (ATC) của WTO. Các Hiệp định này điều tiết nhập khẩu thông qua việc trực tiếp khống chế lượng hàng dệt và may mặc mà các đối tác thương mại của Hoa Kỳ có thể xuất vào thị trường này hằng năm.

- Sau thời điểm ngày 1-1-2005, các quy định của Hoa Kỳ ảnh hưởng tới xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ chỉ còn là các điều khoản liên quan tới hàng dệt may trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương và khu vực, hay một số “sáng kiến thương mại” (về bản chất vẫn là một dạng hiệp định thương mại tự do) mà Hoa Kỳ ký với các đối tác.

Có thể kể ra một số như: các FTA với Chile, Singapore, Israel, Jordan; Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Luật Phát triển và Cơ hội châu Phi (AGOA); Luật Ưu đãi Thương mại Vùng vịnh Caribe (CBTPA), và Luật Xúc tiến Thương mại và Xoá bỏ Ma túy (ATPDEA). Các thỏa thuận và hiệp định này cho phép hàng dệt và may mặc của các nước khác tiếp cận thị trường Hoa Kỳ với những ưu đãi nếu thỏa mãn các điều kiện nhất định.

Do vậy, mặc dù không còn bị khống chế bởi hạn ngạch sau ngày 1-1-2005, phần lớn các nước thành viên WTO vẫn phải trả thuế nhập khẩu cho hàng dệt may vào Hoa Kỳ nếu không thuộc diện được ưu đãi theo các hiệp định và luật kể trên.

Biểu thuế của Hoa Kỳ có các cột khác nhau biểu thị mức độ ưu đãi khác nhau tùy theo quan hệ thương mại với nước xuất khẩu. Giá các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ vì thế sẽ có sự chênh lệch bởi sự khác biệt về nguồn gốc xuất xứ. Hoa Kỳ đã chuyển hướng chính sách sang gián tiếp điều tiết nhập khẩu bằng cách gây ảnh hưởng tới giá hàng dệt may của các nước xuất khẩu.

Điều tiết nhập khẩu qua tác động tới lượng và giá là hai đặc điểm chính dễ nhận thấy nhất trong chính sách của Hoa Kỳ. Chúng được thay đổi để áp dụng phù hợp với từng giai đoạn của quá trình phát triển thương mại hàng dệt và may mặc toàn cầu (lấy mốc là thời điểm ngày 1-1-2005) và xu thế phân công lao động quốc tế.

Tuy nhiên trên thực tế, các chính sách này đã giúp được gì cho ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ những năm qua?

2. Sản xuất dệt may nội địa của Hoa Kỳ

Nếu như trong 10 năm (từ tháng 12-1984 đến tháng 12-1994), sản lượng ngành dệt tăng 32,3%, may mặc tăng 2,2%, thì trong 10 năm 10 tháng (từ tháng 12-1994 đến tháng 10-2005), ngành dệt đã giảm 22%, may mặc giảm tới 51,7%.

Về lao động, hiện không có số liệu thống kê biến động trước và sau thời điểm ngày 1-1-2005. Tuy vậy, từ tháng 12-1994 đến tháng 10-2005, hai ngành này đã mất tới 907.900 việc làm (giảm 58,3%). Tính đến tháng 10-2005, dệt may Hoa Kỳ chỉ còn duy trì được tổng cộng 648.600 việc làm.

Trong những tháng nửa sau 2005, sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ đã có một số dấu hiệu phục hồi yếu ớt. Sản lượng dệt tháng 10-2005 tăng 2,4% kể từ 5/2005; sản lượng may mặc tháng 9-2005 tăng 4,3% kể từ tháng 5-2005. Đây cũng là mức tăng lớn nhất (tính theo chu kỳ bốn tháng) kể từ tháng 6-1994. Một trong những nguyên nhân có thể do chính phủ Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp tự vệ đối với 10 cat hàng dệt may của Trung Quốc (tháng 4-2005). Với việc đạt được thỏa thuận về dệt may với Trung Quốc vào đầu tháng 11-2005, có thể sản xuất trong nước của Hoa Kỳ sẽ còn hồi phục nhẹ trong năm 2006.

Số liệu thống kê của Hoa Kỳ năm 2005 cho thấy ưu thế trên thị trường hàng dệt may nhập khẩu Hoa Kỳ sau thời điểm ngày 1-1-2005 đã thuộc về các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Hàn Quốc, các nước ASEAN... và thị phần của ngành sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ luôn trên đà thu hẹp.

Như vậy, thấy trước nguy cơ khó cạnh tranh được với nhập khẩu dệt may từ các nước đang phát triển thuộc châu Á, Phi và Mỹ Latinh có chi phí nhân công thấp, giá thành rẻ, Hoa Kỳ đã từ rất sớm thực hiện các chính sách kiềm chế nhập khẩu. Tuy thế các chính sách này đã không cứu được sản xuất dệt may trong nước khỏi liên tục sa sút trước sức cạnh tranh quá mạnh của hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển.

Toàn cầu hóa khiến sụt giảm sản xuất trong nước ở những ngành cần lao động giản đơn như may mặc là một xu thế tất yếu ở những nước phát triển như Hoa Kỳ. Các chính sách của Hoa Kỳ nhằm kiềm chế hàng dệt may nhập khẩu đã không đem lại hiệu quả bảo vệ sản xuất trong nước của họ. Vậy tại sao họ vẫn tiếp tục theo đuổi?

Có thể bạn quan tâm