Chiến dịch Trị - Thiên năm 1972

Quyết tâm mới của Quân ủy Trung ương được Bộ Chính trị thông qua ngày 11-3-1972. Ngay sau đó, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Ðảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị-Thiên. Thiếu tướng Lê trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Quang Ðạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Ðệ làm Phó Tư lệnh.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.    

Ngày 15-3-1972 tại Bãi Hà (Vĩnh Linh), Ðảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Ðồng chí Lê Trọng Tấn thay mặt Ðảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch báo cáo kế hoạch trong đó xác định: Chiến trường Trị-Thiên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược của địch. Trong những năm qua mặc dù bị thua đau, bị hao tổn binh lực nhưng địch vẫn tăng cường phòng thủ chắc chắn. Ðến trung tuần tháng 2-1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có hai sư đoàn bộ binh (1; 3), hai lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147; 258), bốn tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.100 cảnh sát, 14 tiểu đoàn pháo binh (258 khẩu), ba thiết đoàn (184 xe tăng, thiết giáp). Ðịch bố trí lực lượng thành ba tuyến: Tuyến ngoài cùng (giáp ranh giữa ta và địch) kéo dài từ Biển Ðông đến sát biên giới Việt - Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này là không quân, pháo binh, biệt kích, khẩn cấp lắm thì dùng một bộ phận nhỏ chủ lực hành quân càn quét. Tuyến giữa là tuyến phòng thủ cơ bản quan trọng nhất trong hệ thống phòng thủ của địch. Trong tuyến này có nhiều điểm cao, căn cứ được Mỹ dày công xây dựng như Cồn Tiên, Dốc Miếu, Ðộng Ông Do, 241, 544, v.v... được mệnh danh là "bất khả xâm phạm". Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã "bình định" của địch. Trên tuyến này địch tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương, vừa liên kết phòng giữ vừa có thể độc lập tác chiến. Tuyến trong cùng - còn gọi là tuyến phòng thủ dự bị  - từ đường số 1 kéo ra Biển Ðông gồm các thị trấn, thị xã đông dân: Ðông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, lính ngụy ở tuyến này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với bảo an dân vệ, kìm kẹp, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.

Căn cứ tình hình địch triển khai trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng lực lượng tiến công trên bốn hướng:

- Hướng bắc (chủ yếu) sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường hai trung đoàn bộ binh (48, 27), tiểu đoàn 15 độc lập, hai trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), một trung đoàn pháo cao xạ (284), hai tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, hai tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn đặc công và ba trung đội (hóa học, trinh sát, phun lửa) do đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy chiến dịch chỉ huy phối hợp lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 địch ở các điểm cao 544, Ðồi Tròn, Ðộng Mã, Cồn Tiên sau đó tiến công các mục tiêu ở Quán Ngang, Miếu Bái Sơn và sẵn sàng đánh địch ở Hồ Khê, Ðá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình...

- Hướng tây sử dụng Sư đoàn 304, trung đoàn pháo binh 38; bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh do đồng chí Hoàng Ðan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 đảm nhiệm tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Ðộng Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ, sẵn sàng phối hợp hướng bắc đánh chiếm núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Ðầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.

- Hướng nam do Sư đoàn 324 (thiếu một trung đoàn) cùng các đơn vị phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với ba tiểu đoàn địa phương Quảng Trị do đồng chí Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh và đồng chí Lê Tự Ðồng, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Ðộng Ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ.

- Hướng đông (thứ yếu) của chiến dịch, sử dụng tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh, hai tiểu đoàn đặc công (31, 25), một tiểu đoàn vận tải mang vác, bốn đại đội địa phương và Ðoàn đặc công Hải quân 126, do đồng chí Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, đảm nhiệm bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền Cửa Việt, phối hợp các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp của địch, hỗ trợ quần chúng hai huyện Do Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.

Cuối tháng 3-1972, các đơn vị chủ lực ta đã cài thế chiến dịch xong nhưng cố vấn Mỹ cũng như tướng tá của quân ngụy vẫn chưa đoán định được đâu là hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 ngụy trấn giữ bắc Quảng Trị trong báo cáo hằng ngày gửi về Bộ tổng tham mưu ngụy và phủ tổng thống của Nguyễn Văn Thiệu vẫn xác định "tình hình chiến trường yên ổn, không có gì đặc biệt" và  Sư đoàn 3 địch vẫn thay quân theo kế hoạch.

Sáng 30-3-1972, trong khi ta đang hoàn tất mọi công tác chuẩn bị lần cuối cùng để nổ súng vào 16 giờ cùng ngày thì Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận được tin của quân báo mặt trận: Trung đoàn 56 ngụy đang chuẩn bị thay quân ở điểm cao 544 và Ðồi Tròn. Nhận thấy đây là thời cơ tốt để tiêu diệt sinh lực địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sẽ nổ súng sớm hơn dự kiến và lệnh cho các đơn vị trong toàn mặt trận sẽ nổ súng vào 11 giờ 30 phút ngày 30-3.

Trận mở đầu thắng lợi giòn giã của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 đã cổ vũ mạnh mẽ các đơn vị, đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-3-1972 toàn Mặt trận Trị - Thiên nổ súng.

Trên hướng chủ yếu, các Trung đoàn 27, 48 và Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tiến công điểm cao 544, Ba Hồ, Quất Xá. Sau khi đập tan các cứ điểm kiên cố vòng ngoài, các đơn vị tiếp tục phát triển chiến đấu đánh chiếm Ðầu Mầu, Ðộng Toàn, Ðồi Tròn và bao vây Cồn Tiên, Cam Lộ. Ngày 1-4 tại Thiện Xuân, Tiểu đoàn 15 của ta đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 56 và một bộ phận thuộc thiết đoàn 11 ngụy lên ứng cứu cho sở chỉ huy Trung đoàn 56 ngụy ở điểm cao 241. Sáng 3-4, Sư đoàn 304 cùng xe tăng tiếp tục tiến công Trung đoàn 56 ngụy ở căn cứ 241 và Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến ở Mai Lộc, đến cuối ngày, ta hoàn toàn làm chủ các căn cứ 241, Mai Lộc.

Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 324 ngay từ những ngày đầu đã đánh chiếm được các điểm cao 365, Ðộng Mô. Ngày 4-4 sư đoàn tiếp tục áp sát bao vây các căn cứ Phượng Hoàng, Ðộng Ông Do, tạo thế uy hiếp La Vang, Quảng Trị từ phía nam.

Ở hướng vu hồi, từ ngày 30-3, Ðoàn 126 hải quân liên tục tập kích hải đoàn 11 địch trên sông và cảng Cửa Việt. Tiểu đoàn 66 (Trung đoàn 202 xe tăng) cơ động lực lượng vào Vinh Quang Thượng chuẩn bị đánh Ðông Hà.

Trong đợt 1 (từ ngày 30-3 đến 9-4) ta đã phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, chiếm các điểm cao 544, Ðồi Tròn, 241, Ba Hồ, Quất Xá, Ðầu Mầu, Mai Lộc, Ðộng Ông Do, Phượng Hoàng, v.v... giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh, Cam Lộ và áp sát Ðông Hà.

Sau khi củng cố đội hình chiến đấu, tăng cường thêm lực lượng cho hướng chủ yếu, từ ngày 26-4 ta mở đợt tiến công thứ 2. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 308 tiến công chiếm dãy điểm cao 30, 35, 37, 32, 26 sau đó đánh chiếm căn cứ Ðông Hà, đến ngày 28 ta hoàn toàn làm chủ khu vực Ðông Hà - Lai Phước.

Trên hướng tiến công phối hợp Sư đoàn 304 chiếm các điểm cao 22, 23 và phát triển đánh chiếm cầu Quảng Trị. Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta và thấy Ðông Hà đã bị mất, Lữ đoàn 147 cùng Trung đoàn 2 ngụy ở Ái Tử hốt hoảng bỏ chạy. 2 giờ sáng 1-5 ta chiếm được Ái Tử. Sau khi Ðông Hà, Ái Tử bị mất, quận lỵ Hải Lăng bị uy hiếp mạnh, địch vội vã rút quân khỏi La Vang - Quảng Trị. Nắm chắc tình hình địch, ta sử dụng Sư đoàn 324 truy kích tiêu diệt thêm nhiều quân địch ở khu vực từ Cầu Dài, cầu Bến Ðá đến bắc sông Mỹ Chánh. 18 giờ ngày 2-5-1972 ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, kết thúc giòn giã đợt 2 chiến dịch.

Trước thất bại ở Quảng Trị, ngày 3-5, Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân khu 1, đưa Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 4 ra thay, đồng thời điều sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến ra lập phòng tuyến ngăn chặn mới từ nam sông Mỹ Chánh đến tây đường 12 nhằm giữ các bàn đạp còn lại và chuẩn bị phản kích chiếm lại các vùng đất đã mất.

Về phía ta, sau khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, Bộ chủ trương phát huy thắng lợi tiếp tục tiến công tiêu diệt quân địch ở Thừa Thiên, đưa cuộc tiến công chiến lược Trị-Thiên đến toàn thắng. Ðược Bộ tăng cường thêm Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320b) và bổ sung một số vật chất bảo đảm, từ ngày 20 đến 26-6, Bộ Tư lệnh chiến dịch tổ chức tiếp đợt tiến công thứ ba nhằm: Tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, phá thế phòng thủ của chúng, làm chủ đến giáp sông Hương, không cho địch co cụm ở tuyến sông Bồ, tạo thế phát triển chiến đấu tiếp theo. Nhưng do lúc này địch đã tăng cường lực lượng phòng thủ và huy động một lực lượng lớn không quân đánh phá, hơn nữa mùa mưa đã bắt đầu, công tác vận chuyển tiếp tế hậu cần của ta gặp nhiều khó khăn, cho nên trong sáu ngày tiến công của đợt 3 chiến dịch, các hướng đều không thực hiện được kế hoạch, một số đơn vị bị thương vong lớn, sức chiến đấu giảm sút. Trong khi đó địch huy động máy bay B52 và pháo hạm đánh phá ác liệt các đường vận chuyển và hậu phương chiến dịch của ta, đồng thời chúng điều thêm một lữ đoàn, một trung đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra Huế, chuẩn bị phản công tái chiếm lại Quảng Trị. Trước tình hình đó, đêm 27-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương kết thúc chiến dịch tiến công Trị - Thiên, chuyển sang đánh địch bảo vệ vùng giải phóng.

Kết quả: Trong toàn chiến dịch ta diệt và làm bị thương 27.458 tên, bắt 3.388 tên, phá hủy và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay. Giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã của huyện Hướng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên.

Cùng với các hướng khác trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, chiến dịch tiến công Trị-Thiên giành thắng lợi to lớn đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường có lợi cho ta, góp phần quan trọng buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân xâm lược về nước.

Ðại tá VŨ TRỌNG HOAN
(Viện lịch sử Quân sự Việt Nam, biên soạn)