Kịch bản BĐKH và NBD cho Việt Nam được cập nhật theo lộ trình đã được xác định trong Chiến lược quốc gia về BĐKH, nhằm cung cấp những thông tin mới nhất về biểu hiện, xu thế biến đổi trong quá khứ và kịch bản BĐKH trong thế kỷ 21 ở Việt Nam. Kịch bản được xây dựng dựa trên cơ sở: Báo cáo đánh giá lần thứ 5 (AR5) của Ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC); số liệu khí tượng thủy văn được cập nhật đến năm 2014; xu thế BĐKH và NBD ở Việt Nam; các mô hình khí hậu toàn cầu và mô hình khí hậu khu vực độ phân giải cao cho khu vực Việt Nam... Thông tin kịch bản được cung cấp bao gồm: nhiệt độ, mưa (năm, mùa); các hiện tượng cực đoan khí hậu (bão, gió mùa, nắng nóng, rét đậm, rét hại, hạn hán); mực nước biển dâng đối với các tỉnh ven biển và hải đảo, nguy cơ ngập tương ứng với các mức nước biển dâng. Các khoảng thời gian của thế kỷ 21 được xét đến, bao gồm: đầu thế kỷ (tương lai gần, 2016 - 2035); giữa thế kỷ (tương lai vừa, 2046 - 2065) và cuối thế kỷ (tương lai xa, 2080 - 2099).
Kịch bản BĐKH và NBD phiên bản năm 2016 có những điểm mới quan trọng so với phiên bản năm 2012 như: Cập nhật số liệu đến năm 2014, bao gồm: số liệu của 150 trạm quan trắc trên đất liền và hải đảo thuộc mạng lưới trạm khí tượng thủy văn của Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia; số liệu mực nước biển của 17 trạm hải văn ven biển và hải đảo; số liệu mực nước biển đo đạc từ vệ tinh; số liệu địa hình của bản đồ tỷ lệ 1:2.000, 1:5.000 và 1:10.000 được đo đạc bởi các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH… Một trong những điểm mới đáng chú ý là trong cập nhật kịch bản BĐKH và NBD lần này dựa trên cách tiếp cận mới về kịch bản phát thải là kịch bản phát thải chuẩn, hay đường nồng độ khí nhà kính đại diện và thời kỳ cơ sở được lựa chọn để so sánh là 1986 - 2005, thay cho thời kỳ 1980 - 1999 như lần công bố trước đây… Kịch bản BĐKH và NBD năm 2016 có thể được tóm tắt như sau: Nhiệt độ ở tất cả các vùng của Việt Nam đều có xu thế tăng so với thời kỳ cơ sở (1986 - 2005), với mức tăng lớn nhất là khu vực phía bắc: Theo kịch bản RCP4.5, đến cuối thế kỷ 21, ở phía bắc nhiệt độ tăng chủ yếu từ 1,9 đến 2,4oC và ở phía nam từ 1,7 đến 1,9oC. Còn theo kịch bản RCP8.5, nhiệt độ tương ứng tăng từ 3,3 đến 4,0oC ở phía bắc và từ 3,0 đến 3,5oC ở phía nam. Nhiệt độ thấp nhất trung bình và cao nhất trung bình có xu thế tăng rõ rệt. Lượng mưa năm có xu thế tăng trên phạm vi toàn quốc so với thời kỳ cơ sở ở tất cả các kịch bản: Theo kịch bản RCP4.5, đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có mức tăng phổ biến từ 5 đến 15%. Theo kịch bản RCP8.5, mức tăng nhiều nhất có thể trên 20% ở hầu hết diện tích Bắc Bộ, Trung Trung Bộ, một phần diện tích Nam Bộ và Tây Nguyên. Lượng mưa mùa khô ở một số vùng có xu thế giảm. Lượng mưa một ngày lớn nhất trung bình có xu thế tăng trên toàn lãnh thổ Việt Nam với mức tăng phổ biến từ 10 đến 70%, so với trung bình thời kỳ cơ sở. Số ngày nắng nóng (số ngày nhiệt độ cao nhất Tx ≥ 35oC) có xu thế tăng trên phần lớn diện tích cả nước, lớn nhất là ở Bắc Trung Bộ. Hạn hán có thể trở nên khắc nghiệt hơn ở một số vùng do nhiệt độ tăng và khả năng giảm lượng mưa trong mùa khô… Đáng chú ý, theo kịch bản RCP4.5, mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa với giá trị tương ứng là 58 cm (từ 36 cm đến 80 cm) và 57 cm (từ 33 cm đến 83 cm). Các khu vực Móng Cái - Hòn Dáu và Hòn Dáu - Đèo Ngang có mực nước biển dâng thấp nhất là 53 cm (từ 32 cm đến 75 cm). Trong khi đó, theo kịch bản RCP8.5 mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa với giá trị tương ứng là 78 cm (từ 52 cm đến 107 cm) và 77 cm (từ 50 cm đến 107 cm). Các khu vực Móng Cái - Hòn Dáu, Hòn Dáu - Đèo Ngang có mực nước biển dâng thấp nhất là 72 cm (49 cm đến 101 cm). Vì vậy, nếu nước biển dâng 1 m, khoảng 16,05% diện tích đồng bằng sông Hồng; 1,47% diện tích các tỉnh ven biển miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; 17,84% diện tích TP Hồ Chí Minh; 39,40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập… Việc sử dụng kịch bản BĐKH và NBD cho Việt Nam trong đánh giá tác động và xây dựng các giải pháp ứng phó trong thời gian tới, cần được xem xét và lựa chọn phù hợp từng ngành, lĩnh vực và địa phương với các tiêu chí như: Tính đặc thù (của ngành, lĩnh vực, địa phương…); tính đa mục tiêu; tính hiệu quả nhiều mặt (kinh tế, xã hội, môi trường); tính bền vững; tính khả thi, khả năng lồng ghép với các chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển. Đối với các địa phương, khi áp dụng kịch bản BĐKH và NBD cần xác định các thông số khí hậu quan trọng đối với ngành và đối tượng nghiên cứu phù hợp với địa phương mình; chọn kịch bản BĐKH và NBD cho địa phương từ kịch bản quốc gia; sử dụng các mô hình thủy văn, thủy lực và các mô hình đánh giá tác động nhằm cung cấp những thông tin đầu vào quan trọng khác như sự thay đổi chế độ dòng chảy, ngập lụt, xâm nhập mặn, nước dâng do bão, biến đổi đường bờ… phục vụ xây dựng và triển khai kế hoạch hành động.
Tuy nhiên, kịch bản BĐKH và NBD luôn tồn tại những điểm chưa chắc chắn vì còn phụ thuộc việc xác định các kịch bản phát thải khí nhà kính; những hiểu biết còn hạn chế về hệ thống khí hậu toàn cầu và khu vực, quá trình tan băng, phương pháp xây dựng kịch bản... Do đó, khi sử dụng kịch bản BĐKH trong đánh giá tác động của BĐKH, người sử dụng cần xem xét và phân tích cẩn thận mọi khả năng xảy ra của khí hậu tương lai; đồng thời nên tham vấn ý kiến chuyên gia khí hậu và các chuyên gia khác để xác định các giá trị, cũng như khoảng biến đổi phù hợp nhất để sử dụng trong quá trình lập kế hoạch.
PGS, TS NGUYỄN VĂN THẮNG
Viện trưởng Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH