Công tác dân số còn nhiều khó khăn, thách thức
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, 16 năm qua tốc độ gia tăng dân số ở nước ta được khống chế, duy trì ổn định mức sinh thay thế. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng, cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, số người trong độ tuổi lao động chiếm 68% số dân cả nước.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ trung bình đạt 73,6 tuổi, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người; tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử vong trẻ em tiếp tục giảm; tỷ số tử vong mẹ giảm ba phần tư so với năm 1990; tầm vóc thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện; số năm sống trung bình sau khi đạt 60 tuổi của người Việt Nam đã tương đương nhiều nước trong khu vực và châu Âu.
Quy mô dân số đến tháng 12/2022 là hơn 99 triệu người. Phân bổ dân số đã hợp lý hơn, gắn với các quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các địa phương và đất nước.
Tuy nhiên, theo Tổng cục trưởng Dân số-kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) Nguyễn Doãn Tú, mặc dù công tác dân số đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng còn nhiều khó khăn, thách thức khi chất lượng dân số vẫn còn thấp, chỉ số phát triển con người (HDI) còn nằm ngoài tốp 100; các vấn đề về chiều cao, cân nặng, tầm vóc, sức bền thể lực của người dân có cải thiện, nhưng chưa nhiều; chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam là 164cm ở nam, 153cm ở nữ, thấp hơn nhiều so với người Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu; tuổi thọ bình quân cao, nhưng số năm trung bình sống khỏe mạnh còn thấp, chỉ đạt 64 tuổi.
Việc bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc dưới 10 nghìn người còn hạn chế, nhất là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi...
Hiện nay mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền; các tỉnh miền núi phía bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung, Tây Nguyên mức sinh còn rất cao thì tại một số tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long mức sinh đã xuống thấp. Mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn diễn ra ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Lợi thế của dân số vàng chưa thật sự được khai thác và phát huy hiệu quả do chưa có giải pháp đồng bộ; tốc độ già hóa dân số nhanh nhưng chưa có hệ thống giải pháp thích ứng chủ động.
Chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới, chưa nhiều chính sách tác động đến các lĩnh vực: kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số, tận dụng lợi thế cơ cấu dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số.
Các nội dung về dân số trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội chưa được chú trọng đúng mức; các yếu tố dân số chưa được lồng ghép một cách hệ thống trong hoạch định, thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội...
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, điều quan trọng nhất trong công tác dân số hiện nay là phải có sự đồng thuận cao trong toàn xã hội khi thực hiện công tác dân số kế hoạch hóa gia đình; có sự thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, khi chuyển trọng tâm chính sách dân số từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang triển khai đồng loạt, toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, phân bố dân số nhằm nâng cao chất lượng dân số.
Một khó khăn nữa là khi triển khai công tác dân số tại một số địa phương, một số cấp ủy đảng, chính quyền cũng chưa nhận thức đúng và đủ về vai trò, tính chất lâu dài, tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.
Đồng bộ giải pháp, kết hợp nguồn lực
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên cho rằng, giải pháp cho ngành dân số rất nhiều, nhưng chưa thật hiệu quả. Thí dụ, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh (đã diễn ra từ năm 2006), nhưng đến nay, sau rất nhiều nỗ lực với nhiều giải pháp, giới tính khi sinh vẫn chênh lệch lớn, nhất là tại những tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Để thực hiện được Chiến lược dân số đến năm 2030, cần bắt đầu từ những vấn đề cụ thể, trước mắt, cố gắng đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý.
Tỷ số giới tính khi sinh cần đưa về mức dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%, tỷ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%... Mặt khác tiếp tục nâng tỷ lệ cặp nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn; giảm tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; tiếp tục thực hiện tuyên truyền về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình thông qua việc lồng ghép các nội dung vào các môn học chính khóa và ngoài giờ lên lớp phù hợp với cấp học, trình độ đào tạo. Tìm giải pháp phù hợp nhằm thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi...
Bên cạnh đó, cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; kiện toàn tổ chức bộ máy để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số...
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, cần đổi mới truyền thông, tuyên truyền, vận động về dân số, nên sử dụng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để truyền tải những thông điệp về công tác dân số đến tận những người dân ở những vùng sâu, vùng xa trong mọi hoàn cảnh, thời gian...
GS, TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Dân số và Các vấn đề xã hội (Trường đại học Kinh tế quốc dân) cho rằng, công tác dân số hiện nay đang đối mặt nhiều khó khăn "rất lớn và rất khó". Nhìn bức tranh tổng thể của dân số Việt Nam hiện nay sẽ thấy, để nâng cao chất lượng dân số, góp phần vào phát triển đất nước nhanh và bền vững thì những chỉ số đã đạt là chưa đủ.
Theo Nghị quyết 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, một bức tranh dân số hoàn hảo phải giải quyết được các mục tiêu rộng lớn: Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế-xã hội. Các mục tiêu này được cụ thể hóa bằng 25 chỉ tiêu bao trùm. Để đạt được các mục tiêu này đòi hỏi phải thay đổi định kiến, thói quen đã "đóng đinh" trong tập quán nghìn đời của các dân tộc Việt Nam sang nhận thức, hành vi mới.
Chẳng hạn, để nâng cao chất lượng dân số, phải loại trừ việc tảo hôn, kết hôn cận huyết; người trong độ tuổi trước khi kết hôn được tư vấn và khám sức khỏe; không lựa chọn giới tính thai nhi; phụ nữ khi mang thai và trẻ sơ sinh được tầm soát các bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất, thực hiện kế hoạch hóa gia đình... Đó là sự thay đổi lớn mang tính cách mạng, từ kết hôn, sinh đẻ tự nhiên, bản năng sang kế hoạch, khoa học, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ ít bị trách nhiệm sang trách nhiệm cao với gia đình và toàn xã hội; từ số lượng sang chất lượng…
Nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức, rất cần sự chung tay, đồng lòng, đồng thuận của các cấp, các ngành, của toàn xã hội nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng.