Theo PGS, TS Lê Xuân Cảnh, việc gây, nuôi thương mại một số loài động vật thông thường có thể chấp nhận được, dựa trên cơ sở cân nhắc các đặc tính sinh thái của chúng, về khả năng sinh sản… Nhưng việc nuôi thương mại các loài nguy cấp, quý hiếm cần được nghiêm cấm, đặc biệt, đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng cao. “Bảo tồn nền đa dạng sinh học độc đáo luôn là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển. Việc gây nuôi động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm có thể mang lại lợi nhuận cho một số người, song nó lại đe dọa nghiêm trọng đa dạng sinh học đất nước”.
Trong hai năm 2014-2015, Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV) đã thực hiện khảo sát 26 trang trại gây nuôi thương mại ĐVHD ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, tình trạng nhập lậu ĐVHD diễn ra phổ biến tại các cơ sở có quy mô lớn. Trong khi đó, các cơ quan chức năng hiện không có khả năng quản lý hiệu quả hoạt động gây nuôi và buôn bán ĐVHD.
Chi cục trưởng Kiểm lâm Quảng Trị Khổng Trung cho biết, tình trạng buôn bán ĐVHD trái phép diễn biến phức tạp vì nhu cầu cao. Trong 5 năm qua, tỉnh Quảng Trị đã bắt giữ 47 vụ vi phạm, tịch thu hơn 5.000 kg ĐVHD, trong đó có hơn 600 kg ĐVHD quý hiếm. Nhiều đối tượng bị xử lý phạt tiền ở mức cao nhất, 150 triệu đồng/vụ hoặc phạt tù hưởng án treo, tịch thu tang vật, thả về môi trường tự nhiên,... Tuy nhiên, mức xử phạt với hành vi buôn bán, vận chuyển ĐVHD quý hiếm vẫn nhẹ, mặc dù đã có xử lý hình sự, nhưng cao nhất cũng chỉ là án treo, nên không đủ sức giáo dục, răn đe. Một số hành vi buôn bán các sản phẩm quý hiếm như sừng tê giác, ngà voi, nhưng không có khung định giá, nên không thể xử lý. Các cán bộ thực thi pháp luật không thể phân biệt được giữa sản phẩm ĐVHD được gây nuôi hợp pháp từ các trang trại và các sản phẩm bị săn bắt trái phép từ tự nhiên. Do đó, ông Khổng Trung cho rằng, trong khi chưa quản lý tốt cơ sở gây nuôi, việc nỗ lực bảo vệ rừng còn chưa bảo đảm, thì chưa nên cho phép gây nuôi ĐVHD nguy cấp, quý hiếm.
Theo Phó Giám đốc ENV Bùi Thị Hà, nhu cầu tiêu thụ ĐVHD nguy cấp, quý hiếm và những sản phẩm từ các loài trên nhiều khả năng sẽ tăng đáng kể, nếu các sản phẩm hiện bị cấm này được phép lưu hành trên thị trường. Trong khi mục tiêu của bảo tồn là để bảo vệ sự đa dạng sinh học, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, thì mối quan tâm hàng đầu của chủ các cơ sở gây nuôi là lợi nhuận. Các cơ sở gây nuôi thương mại sẽ không đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sinh sản, hay có kiến thức để bảo đảm tránh giao phối cận huyết, lai tạp nguồn gien, những điều kiện cơ bản để tái thả ĐVHD về tự nhiên. Bên cạnh đó, việc song song tồn tại của cả sản phẩm ĐVHD hợp pháp và bất hợp pháp trên thị trường, gây khó khăn lớn cho công tác thực thi pháp luật, tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán, kinh doanh ĐVHD bất hợp pháp.
Bà Gien-ni Đan-chi, cán bộ cao cấp về bảo tồn sinh vật học, Tổ chức Động thực vật hoang dã quốc tế (FFI) cho rằng, thực tế trên thế giới vẫn có một số ít các trường hợp ĐVHD nguy cấp, quý hiếm được gây nuôi thành công, được buôn bán trao đổi ở mức ổn định, đem lại lợi ích cho những người triển khai, đồng thời ĐVHD cũng được bảo tồn thành công ngoài tự nhiên. Tuy nhiên, đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Vì chi phí săn bắt động vật ngoài tự nhiên rẻ hơn so với cho sinh sản, nuôi dưỡng, chăm sóc. Nếu không có sự giám sát quản lý chặt chẽ các cơ sở này, sẽ dẫn đến lỗ hổng trong luật pháp và thúc đẩy nhu cầu săn bắt ĐVHD trong tự nhiên.