Bước chuyển mới của thị trường viễn thông

Bước chuyển mới của thị trường viễn thông

Cạnh tranh làm thay đổi thị trường viễn thông

Năm 2004, dấu ấn đầu tiên đối với thị trường viễn thông nước ta là giá cước dịch vụ thông tin di động giảm đáng kể so với năm 2003 nhờ sự thay đổi phương thức tính cước của nhiều nhà cung cấp dịch vụ. Từ ngày 1-8-2004, Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam (VNPT) - nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động lớn nhất hiện nay, đã bắt đầu áp dụng phương thức tính cước liên lạc một vùng cho dịch vụ này trên toàn quốc và cách tính cước theo block 30 giây thay vì làm tròn một phút như trước đây. Phương thức tính cước hợp lý đã giúp khách hàng có thể tiết kiệm đáng kể chi phí sử dụng dịch vụ. Trước đó mạng S-Fone và Viettel Mobile cũng áp dụng phương thức tính cước thống nhất một vùng trên toàn quốc, nhất là S-Fone tính cước theo block 10 giây, còn Viettel Mobile sử dụng block 6 giây.

Sở dĩ cước thông tin di động năm 2004 giảm khá mạnh là do có sự cạnh tranh giữa nhiều doanh nghiệp viễn thông, đem lại cho người sử dụng nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ giá rẻ. Theo Bộ trưởng Bưu chính - Viễn thông Ðỗ Trung Tá, năm 2004, thị trường viễn thông bước đầu có cạnh tranh và có mức tăng trưởng cao, khoảng 15%. Việc xuất hiện thêm mạng Viettel Mobile của Công ty Viễn thông quân đội (Viettel) vào tháng 10-2004 thật sự tạo ra động thái mới cho thị trường thông tin di động trong nước. Như vậy, tổng số doanh nghiệp tham gia khai thác thị trường thông tin di động của nước ta hiện nay là bốn doanh nghiệp. Không còn độc quyền, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp đều phải đưa ra nhiều chính sách thu hút khách hàng hấp dẫn. Ðồng thời, không chỉ giảm giá cước, cạnh tranh còn tạo động lực cho các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Khách hàng có thể so sánh chất lượng dịch vụ của nhiều nhà cung cấp dịch vụ để lựa chọn sử dụng.

Năm qua, Bộ Bưu chính - Viễn thông cũng cấp thêm giấy phép cung cấp dịch vụ điện thoại cố định vệ tinh VSAT, di động mặt đất, di động vệ tinh Inmarsat cho một số doanh nghiệp  như Công ty Viettel, Viễn thông điện lực, Viễn thông hàng hải... Lộ trình mở cửa thị trường viễn thông trong nước còn được ghi thêm dấu ấn quan trọng bằng việc ngày 21-9-2004 Viettel thông tuyến kỹ thuật kết nối thông tin liên lạc với quốc tế bằng tuyến cáp quang đất liền hướng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Móng Cái - Ðông Hưng - Bắc Kinh (Trung Quốc) và Hồng Công. Việc thông tuyến cáp quang quốc tế của Viettel đã chấm dứt hoàn toàn sự độc quyền của VNPT trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ thuê kênh quốc tế. Hiện chi phí thuê kênh quốc tế chiếm khoảng 80% chi phí của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ in-tơ-nét (ISP). Tuy nhiên, với tuyến cáp quang quốc tế của Viettel, các ISP có thể hy vọng giảm tới 50% chi phí thuê kênh quốc tế. Ðiều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ISP, giảm giá thành dịch vụ, hứa hẹn bước đột phá trong phát triển dịch vụ in-tơ-nét vào năm 2005.

Bước chuyển về công nghệ viễn thông

Năm 2004, những nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đã góp phần không nhỏ vào thành quả phát triển của ngành viễn thông nói chung. Lần đầu, mạng viễn thông cả nước đã đạt 10,3 triệu thuê bao điện thoại, tăng 2,97 triệu thuê bao so với năm 2003, đạt mật độ điện thoại 12,56 máy/100 dân, vượt chỉ tiêu Ðại hội IX của Ðảng đề ra là từ 7 đến 8 máy/100 dân. Ðể tiếp tục phát triển mạng viễn thông quốc gia, nhất là tại các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, Thủ tướng Chính phủ chính thức ban hành Quyết định số 191/2004/QÐ-TTg, về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách của Nhà nước về cung cấp dịch vụ viễn thông công ích trên phạm vi cả nước. Ðối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông, quyết định này có ý nghĩa quan trọng, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển mạng viễn thông tại các địa bàn khó có thể mang lại hiệu qủa kinh tế cao, xóa bỏ khoảng cách tiếp cận các dịch vụ viễn thông giữa nông thôn và thành thị.

Ðiểm nhấn quan trọng khác của phát triển mạng viễn thông trong năm qua là VNPT chính thức khai trương mạng viễn thông thế hệ mới (NGN) lần đầu tại Việt Nam sử dụng công nghệ chuyển mạch gói, cho phép hỗ trợ mọi phương thức truyền, đưa thông tin (âm thanh, số liệu, hình ảnh) và bảo đảm dịch vụ (điện thoại, truyền số liệu, in-tơ-nét, phát thanh, truyền hình, giải trí qua mạng...). Tổng Giám đốc VNPT Phạm Long Trận cho biết, việc khai trương mạng NGN đánh dấu bước chuyển biến cơ bản về công nghệ viễn thông Việt Nam, là cơ sở phát triển nhiều loại hình dịch vụ giá trị gia tăng trong thời gian tới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Năm 2004 cũng ghi nhận sự phát triển khá nhanh của nhiều doanh nghiệp viễn thông, in-tơ-nét mới như Viettel, SPT, FPT... Tổng doanh thu của các doanh nghiệp ngoài VNPT đạt khoảng hai nghìn tỷ đồng. Ðối với một số dịch vụ, thị phần của các doanh nghiệp mới đang tăng dần lên. Chẳng hạn dịch vụ in-tơ-nét, VNPT chỉ còn chiếm 53,5% thị phần, dịch vụ điện thoại quốc tế VoIP, VNPT chiếm 39,12% thị phần... Tuy nhiên đối với phần lớn các dịch vụ viễn thông, các doanh nghiệp mới vẫn chỉ chiếm gần 10% thị phần, chưa đạt mục tiêu là năm 2005 chiếm 25-35% thị phần. Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề kết nối giữa các doanh nghiệp viễn thông. Bộ Bưu chính - Viễn thông thừa nhận việc chỉ đạo phối hợp giữa các doanh nghiệp trong kết nối mạng lưới và cung cấp dịch vụ chưa đạt yêu cầu đề ra. Tổng Giám đốc Công ty Viettel Hoàng Anh Xuân cho rằng, việc kết nối giữa các doanh nghiệp trong thời gian qua còn chậm và kéo dài. Ðể bảo đảm sự phát triển của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp mới, Bộ Bưu chính - Viễn thông cần ban hành quy định hướng dẫn kết nối đồng thời thành lập Cục quản lý chuyên trách về các vấn đề liên quan kết nối viễn thông, chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện kết nối nhanh, bảo đảm dung lượng và chất lượng. Về khó khăn của các doanh nghiệp, Phó Tổng Giám đốc Công ty SPT Nguyễn Nhật Tân lại cho rằng, trong xu hướng phát triển mạng thế hệ mới NGN nếu việc cấp phép phân biệt từng loại dịch vụ sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc phát huy hiệu quả của mạng này. Vì vậy, bộ cần xem xét, cân nhắc cách phân chia dịch vụ khi cấp phép.

Dự báo về thị trường viễn thông nước ta năm 2005, Bộ trưởng Bưu chính - Viễn thông cho biết năm nay, thuê bao điện thoại di động sẽ phát triển mạnh mẽ với số lượng cao hơn thuê bao điện thoại cố định. Dịch vụ in-tơ-nét cũng phát triển, nhất là dịch vụ in-tơ-nét băng thông rộng. Bên cạnh đó, nhiều dịch vụ giá trị gia tăng trên nền mạng NGN sẽ được nhiều người sử dụng. Năm 2005 cũng là năm Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực một năm đối với lĩnh vực viễn thông. Do đó, hy vọng năm nay lĩnh vực viễn thông sẽ thu hút được lượng đầu tư nước ngoài lớn. Các doanh nghiệp trong nước có thể hợp tác doanh nghiệp nước ngoài để tranh thủ nguồn vốn, tận dụng công nghệ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp trong nước cũng cần tăng cường hợp tác với nhau, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường để đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.

THU HÀ

Có thể bạn quan tâm