Trong hai năm 2001 và 2002, lượng tiền của người Việt ở nước ngoài chuyển về nước đạt lần lượt 1,75 và 2,15 tỷ USD; đến hai năm 2003-2004 con số này đã lên đến gần ba tỷ USD mỗi năm. Tổng cộng trong 14 năm qua đã có hơn 15 tỷ USD, bằng 59% tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thực hiện và lớn hơn cả tổng số vốn ODA giải ngân từ năm 1993 đến nay. Con đường chuyển kiều hối về nhiều nhất vẫn là qua các ngân hàng Việt Nam. Chắc chắn trên thực tế lượng tiền còn lớn hơn do số tiền mang về trực tiếp và gửi qua các kênh không chính thức. Lượng kiều hối nói trên chỉ phản ánh một phần rất nhỏ tiềm lực của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Từ xu thế "mạng lưới toàn cầu"…
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng nhanh chóng, sâu rộng như hiện nay, công nghệ mới xuất hiện, khoảng cách được rút ngắn, yếu tố địa lý trong kinh doanh giảm dần ý nghĩa, tính liên kết tăng lên mạnh mẽ dẫn đến tính "mạng" trong kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng.
Trung Quốc cũng đang thực hiện chiến lược phát huy tiềm năng của Hoa kiều trong phát triển kinh tế thông qua thu hút chất xám, đầu tư và lấy Hoa kiều làm cầu nối để đưa hàng hóa thâm nhập thị trường quốc tế. Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã ban hành pháp lệnh mở cửa Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh, biến nơi này không chỉ còn là địa điểm đón tiếp các quan chức Đảng Cộng sản Trung Quốc, các quân nhân làm nhiệm vụ và nông dân xuất sắc mà còn là nơi đón tiếp các trí thức Hoa kiều đang sống và làm việc ở nước ngoài về xây dựng quê hương. Chính phủ đã tiếp đãi trọng thể các học giả và đã xây dựng hơn 70 khu kinh doanh cho họ làm việc. Một trong số đó là khu Zhongguancun, gần Bắc Kinh, được biết đến như thung lũng Silicon của Trung Quốc.
Ấn Độ cũng là một thí dụ sinh động về phát huy năng lực của Ấn kiều. Trong một hội nghị năm 2003 tập hợp 2.600 người Ấn thành công trên thế giới, Thủ tướng Ấn Độ Vajpayee đã tuyên bố về một "gia đình Ấn toàn cầu" hướng về sự phát triển thịnh vượng của Ấn Độ. Thực tế cho thấy, chính những tầng lớp người Ấn tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh, khoa học công nghệ tiên tiến ở bên ngoài đã trở về quê hương lập nên những tập đoàn kinh doanh năng động mang nhãn hiệu India.
…Nghĩ đến cộng đồng người Việt ở nước ngoài
Khó có con số chính xác về thu nhập của khoảng ba triệu người gốc Việt ở nước ngoài. Tuy nhiên, nếu dựa trên cơ sở là đa số đồng bào gốc Việt ở nước ngoài đang cư trú ở các nước có thu nhập cao như Bắc Mỹ và Tây Âu, tạm dùng con số thu nhập mỗi năm là 5.000 USD/người, thì ba triệu người Việt ở nước ngoài có thu nhập hàng năm lên đến 15 tỷ USD. Con số này không hoàn toàn vô lý hay được phóng đại vì dựa vào tiền gửi chính thức về quê hương là 3 tỷ USD, tức là lên tới 20% thu nhập, một tỷ lệ quá cao so với mức tiết kiệm bình thường ở các nước Âu Mỹ. Nếu tính toán sát thực tế hơn, cho là một người chỉ gửi về tối đa độ 10% số tiền kiếm được, thì thu nhập của khối người Việt ở nước ngoài có thể lên tới 30 tỷ USD, bằng khoảng 75 % tổng sản lượng quốc dân của Việt Nam (ước tính ở mức 39 tỷ USD vào năm 2003). Đây là một con số đáng kể đối với một cộng đồng người Việt ở nước ngoài chỉ thuộc thế hệ thứ nhất.
Từ GDP đến GGP
Nếu thử đề nghị một định nghĩa mới cho hệ thống kế toán tài khoản quốc gia là tổng sản phẩm toàn cầu của một nước (Gross Global Product-GGP) cho Việt Nam, Israel, Ấn Độ hay Trung Quốc là những nước có nhiều người sinh sống ở ngoài lãnh thổ quốc gia, thì chúng ta sẽ có ba định nghĩa sau đây về tổng sản phẩm cho một nước, thí dụ là Việt Nam:
- Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product -GNP): Tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ do người dân của Việt Nam sản xuất bất kể trên lãnh thổ quốc gia mình hay ở các nước khác.
- Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product -GDP): Tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ do người dân của Việt Nam hay của nước khác sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam.
- Tổng sản phẩm toàn cầu (Gross Global Product-GGP): Tổng giá trị của các vật tư và dịch vụ do người dân của Việt Nam hay người dân của nước khác sản xuất trên lãnh thổ quốc gia Việt Nam, cùng với các kiều bào gốc Việt sản xuất trên lãnh thổ các nước khác.
Nếu tính như vậy thì tổng sản phẩm toàn cầu của Việt Nam sẽ là 69 tỷ USD cho 85 triệu người Việt ở cả trong và ngoài nước. Con số này có ảnh hưởng lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam.
Trình độ giáo dục cao, kinh nghiệm làm việc, kỹ năng quản lý, tiếp cận với công nghệ mới... là nguồn tài nguyên, kiến thức rất lớn đối với một quốc gia. Đội ngũ đáng kể nhất là khối đông doanh nhân và chuyên viên Việt kiều ở tuổi 40-50 và giới kỹ thuật gia trẻ, lứa tuổi 25-35, đang có mặt trong nhiều hãng, xưởng ở 150 nước trên thế giới. Họ là những người có thu nhập cao nhất, một bộ phận có "trọng lượng" trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài và có tiềm năng lớn để đóng góp cho Việt Nam.