Lợi hay hại?
Chúng tôi đang đứng giữa hai con sông, mà theo dân địa phương, một chứa đầy nước ngọt, một chỉ toàn nước mặn từ biển đổ về. Gọi là sông nhưng dường như không phải vậy, ít nhất là tại nơi đây, bởi nước sông cứ lặng lờ, âm thầm dâng lên rồi rút xuống. Gọi là hồ, có lẽ cũng không đúng.
Trước kia, nơi đây đã từng là con sông - sông Ba Lai. Hằng năm, hàng triệu mét khối nước phù sa, nước mặn đã qua lại nơi đây. Thiên nhiên không chia tách chúng, mà là con người. Ngày 21-7-2000, những xe đất đá đầu tiên được đổ xuống đoạn sông này theo dự án ngọt hóa cù lao An Hóa và cù lao Bảo, do Ban Quản lý dự án Thủy lợi 418 (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) làm chủ đầu tư. Đã có một số nghiên cứu kết luận rằng, dự án này giúp 115.000 ha đất nông nghiệp được ngọt hóa.
Cuối năm 2004, ông Huỳnh Văn Be, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, vẫn khẳng định: "Hiệu quả của đập Ba Lai rất lớn. Nhờ có đập, mặn, ngọt được chia tách rõ ràng, tạo được trên 100.000 ha đất trồng lúa và 5.000 ha nuôi tôm công nghiệp".
Khi chưa có đập Ba Lai, anh Đinh Hồng Thanh ở ấp 3, xã Thạnh Trị, huyện Bình Đại, vẫn có thể trồng lúa trên mảnh đất của mình vào thời điểm nước sông Ba Lai không bị xâm mặn. Thu hoạch mỗi vụ được 300 ký lúa/công đất. Còn khoảng sáu tháng bị xâm mặn, anh để ruộng ngập tự nhiên nuôi tôm quảng canh. Hiệu quả tính ra gấp bốn lần so với làm vụ lúa mùa. Quy ra lúa, bình quân thu nhập trên hai công đất của anh được khoảng 3,6 tấn/ năm. Điều này, Tiến sĩ Lê Quang Trí, Phó trưởng khoa Nông nghiệp (Đại học Cần Thơ), thừa nhận: "Dù nước thường xuyên bị nhiễm mặn, nhưng chính dòng nước ấy vô tình ém phèn, giúp người dân có thể làm tốt một vụ lúa, một vụ tôm".
Giờ đây, sau gần ba năm được "ngọt hóa", hai công đất của anh Thanh sắp sửa phải bỏ hoang. Anh nói: "Mía giống giâm xuống, không lâu sau lại bị thối gốc vì "chân" phèn mặn vẫn còn trong đất. Đeo đất này, gia đình tôi lấy gì sống". Hằng ngày, anh phải đi làm mướn kiếm sống. Trước nhà anh, ngay sát con đê sông Ba Lai, cây trứng cá trồng mấy tháng trước giờ đã chết khô. Anh than: "Cây này còn không sống được, lúa, mía làm sao chịu thấu?".
Anh Dương Thanh Hùng, dân gốc Bình Đại, khá am tường về địa chí vùng này, cho biết: "Trước đây, sông Ba Lai thường bị xâm mặn vào mùa khô, ăn sâu vào khoảng 10 ki-lô-mét so với vị trí đập Ba Lai hiện nay. Trước đây, người dân từ cửa Ba Lai trở vào sống bằng nghề làm muối. Từ năm 1995, phong trào nuôi tôm hình thành, nhiều người dân đổi đời khi nuôi xen tôm - lúa". Và khi có đập, theo anh, phần từ đập Ba Lai đến xã Lộc Thuận - tạm gọi là ranh giới mặn ngọt tự nhiên trước đây, do chủ trương tạo thành vùng trồng lúa ba vụ và vùng chuyên canh mía, nên nhiều người dân buộc phải bỏ tôm, thay hẳn bằng lúa - mía. Đời sống kinh tế giảm hẳn vì đất chẳng "chiều" người.
Ở phía bên này đập, tạm gọi là phần ngọt, thuộc ấp 3, huyện Bình Đại, từ khi có đập Ba Lai đến nay, người dân vẫn chưa thể dẫn nước ngọt vào ruộng, gây khó khăn cho việc canh tác. Bà con đã nhiều lần xin được đào vuông, dẫn nước mặn từ cửa Đại về để nuôi tôm nhưng chính quyền không đồng ý vì cho rằng vùng này đã được quy hoạch trồng lúa, mía. Còn nước ngọt, theo anh Trần Hữu Hiệp, Tổ trưởng Tổ Quản lý cống đập Ba Lai: "Dự kiến, đầu năm 2005 mới xẻ kênh dẫn nước vào".
Theo Tiến sĩ Lê Quang Trí, khi tạo đập ngăn sông như vậy, phần ngọt rất dễ thiếu nước vào mùa khô. Thực tế cho thấy, mực nước ngọt vào mùa khô ở bên này cống đập đã thấp hơn từ 0,3 - 0,7 mét so với lúc chưa có cống. Như vậy, khi đồng ruộng nứt nẻ, lại thêm tình trạng nước mặn rò rỉ từ những con kênh khác dẫn về, khiến đất càng bị nứt nẻ, nhiễm mặn tầng bên dưới. Nếu có phèn tiềm tàng, sẽ biến thành phèn hiện tại, khó có thể trồng trọt. "Đất đã bị nhiễm mặn thì ít nhất phải sau ba năm tích cực đào kênh, rửa phèn mới mong có thể canh tác lúa. Còn nếu bị nhiễm phèn, rất khó rửa. Đôi khi, đến 50 thậm chí 100 năm sau phèn vẫn còn" - ông Lê Quang Trí nói và cho biết thêm, khi dự án ngăn mặn, ngọt hóa bán đảo Cà Mau được thực hiện, nhiều vùng đất ở Cà Mau, Bạc Liêu gặp phải cảnh này và người dân buộc phải bỏ đất hoang trong nhiều năm.
Còn phần bị xâm mặn được cho là sẽ tạo ra những vuông nuôi tôm công nghiệp thì sao? Anh Nguyễn Văn Nô, ở huyện Chợ Lách, cùng nhiều người bạn hùn vốn về Bình Đại nuôi 13 ha tôm công nghiệp vụ nuôi mới đây nhất, cho biết: "Tôm bệnh chết sạch. Lỗ hai vụ liên tiếp, mất gần hai tỷ đồng". Anh Nô nói, cả khu nuôi tôm gần 500 ha nhưng cứ mười người nuôi thì hết bảy người thua lỗ vì tôm chết.
Chưa có kết luận rõ ràng của các nhà khoa học về việc tôm chết do bệnh, do tôm giống, hay do môi trường nước. Nhưng với việc ủ nước 15 ngày mới xổ một lần như hiện nay, khả năng mầm bệnh, chất thải từ những vuông này đổ ra sông Ba Lai, vuông kia lại dẫn vào làm tôm chết là chuyện dễ hiểu.
Do đập Ba Lai?
Mùa khô năm 2004, lần đầu tiên thị xã Bến Tre thiếu nước ngọt trầm trọng. Hơn một tháng, Công ty Cấp thoát nước tỉnh Bến Tre hết sức đau đầu vì bài toán nước sạch. Nguyên nhân chính: nước bị nhiễm mặn.
Nhìn trên bản đồ, có thể thấy ba con sông chảy ngang hoặc gần địa phận thị xã rồi đổ ra biển: Sông Ba Lai, sông Hàm Luông và cửa Đại. Nay sông Ba Lai bị ngăn lại, có người cho rằng, đã gây nên tình trạng xâm mặn ngày càng sâu trên các con sông khác. Ông Lê Quang Trí giải thích: "Rất có thể xảy ra. Bởi một khi tổng lượng nước ngọt tràn ra biển không mạnh so với những năm trước vì bị "bít" một cửa sông, khiến lực đẩy mặn không đủ, nước mặn sẽ tiến sâu theo những nhánh sông khác".
Tình trạng này khiến vùng canh tác lúa của một số xã thuộc huyện Châu Thành có nguy cơ giảm năng suất. Từ cuối năm 2003 đến nay, bến sông thuộc xã An Hóa, huyện Châu Thành, bị sạt lở liên tục. Đến tháng 9-2004, đoạn lở đã dài hai ki-lô-mét, ngày càng lấn sâu vào đất liền. Nhiều người dân khu vực này cho biết, từ hơn một năm nay, cứ nước ròng là dòng sông này "chảy như thác", xoáy vào bờ. Một số điểm bờ sông thuộc các xã Long Hòa, Long Định, Giao Hòa... cũng bị sạt lở. Trước đây, chưa bao giờ có tình trạng này.
Hồi tháng 10-2004, chúng tôi đến vùng nuôi nghêu tại cửa biển Ba Lai, xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri. Anh Võ Văn Lau, ngụ ấp 2, cho biết nghêu trong bãi của anh vừa chết sạch. Phòng Thủy sản huyện Ba Tri cũng xác nhận cùng thời điểm, rất nhiều bãi nghêu bị chết. Theo một số hộ nuôi nghêu có kinh nghiệm, có thể do đập Ba Lai ngăn dòng nước ngọt, khiến nồng độ mặn ở bãi nghêu ven biển ngày một tăng làm nghêu chết?
Chuyện nghêu chết ở Ba Tri, rồi tôm chết ở huyện Bình Đại, theo ông Lê Quang Trí, không loại trừ do yếu tố môi trường xấu đi. Ông nghi ngờ, có thể khi nước lũ tràn, đập Ba Lai được xả, đã kéo theo hàng loạt chất thải nông nghiệp, sinh hoạt... đã "tồn trữ" trước đó. Dòng nước này kéo qua vùng tôm, vùng nghêu, đã gây nên chuyện.
Rất nhiều người dân thắc mắc: Hơn 83 tỷ đồng đầu tư cho dự án cống đập Ba Lai đã đem lại hiệu quả gì? Người dân trồng lúa tốt, nhưng chỉ trên những vùng đất mà khi chưa có đập vẫn trồng lúa được. Còn nuôi tôm? Vẫn trên những vùng tôm trước đây, có khác chăng là chuyển hẳn sang nuôi tôm công nghiệp, nhưng hiệu quả lại thấp hơn trước đó.
Tuy nhiên, đáng buồn là đến nay, chưa có một nghiên cứu khoa học nào kết luận chính thức về những chuyện này. Hiện tại, dự án ngọt hóa với số vốn 1.320 tỷ đồng này vẫn chưa hoàn thành. Theo dự kiến, sẽ có thêm hai cống tương tự tại sông An Hóa, ngăn nước mặn xâm nhập từ hướng sông Hàm Luông và cửa Đại để khép kín vùng ngọt hóa.
Nhà khoa học ở đâu?
Phó giáo sư Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, băn khoăn: "Tại sao chúng ta quá ưu ái cho cây lúa ở vùng ven biển. Bao năm qua dân đã trồng lúa, nhưng họ có giàu đâu?". Và với số vốn đầu tư như vậy, theo ông, chỉ khiến giá thành sản xuất lúa tăng thêm.
Ông Tiến cho rằng, mọi quy hoạch phát triển nên gắn với môi trường sinh thái. Bất cứ sự thay đổi môi trường vùng ven biển nào, theo ông Lê Quang Trí, cũng gây biến động sinh thái. Điều cần làm, theo ông Tiến, là phải hướng đến một nền nông - nghiệp - biển, với những cây trồng, vật nuôi hợp sinh thái vùng thường xuyên bị ngập mặn. Cụ thể hơn, theo ông Lê Quang Trí: "Một vụ lúa, một vụ tôm như trước đây sẽ góp phần bảo vệ sinh thái bền vững".
Ông Trí còn khẳng định: "Nước lợ là vùng mà tính đa dạng sinh học rất cao và việc lưu giữ là hết sức cần thiết. Hà Lan từng phá đập, dẫn nước tràn về vùng đất ở phía Bắc nước họ. Tiếp đó, bỏ tiền mua lại những thứ cỏ cây, gia súc đã từng sinh sống trước kia nhằm tái tạo lại sinh thái. Sao chúng ta lại phá những gì đã có?".
Còn tình trạng xâm mặn, không phải lỗi ở những dòng sông. Nguyên nhân sâu xa, theo Phó giáo sư Đào Công Tiến: "Cung cách khai thác tài nguyên đất, nước, kiểm soát lũ, nhất là việc phá rừng, đã gây nhiều biến động đối với môi trường, kể cả tình trạng xâm mặn cũng gia tăng".
Việc sớm nghiên cứu tác động của cống đập Ba Lai và cả dự án ngọt hóa tại Bến Tre với sự tham gia của các nhà khoa học là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, sắp tới vẫn còn triển khai thêm hai công trình ngăn sông, hàng chục cống đập lớn, nhỏ với số vốn hàng trăm tỷ đồng. Và nhất là, theo Phó giáo sư Tiến: "Rất nhiều công trình gọi là công trình khoa học, nhưng các nhà khoa học lại đứng ngoài cuộc".