Người học trò, cộng sự đắc lực của Bác Hồ
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, vừa ra khỏi nhà tù Côn Ðảo, Anh Ba lao ngay vào công việc xây dựng chính quyền mới ở Nam Bộ. Ðầu năm 1946, Anh ra Hà Nội, làm việc bên cạnh Bác Hồ, Tổng Bí thư Trường-Chinh. Ðó là những tháng ngày vô cùng quý hiếm Anh Ba được sống bên Bác, được chứng kiến, học hỏi ở Bác tài thao lược chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua phong ba, bão táp, thù trong, giặc ngoài bằng những biện pháp cực kỳ sáng suốt về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc. Dự báo không thể nào tránh khỏi phải thực hiện cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do non trẻ, nghĩ tới địa hình đất nước dễ bị chia cắt trong chiến tranh, Bác và Bộ Chính trị quyết định cử Anh Ba trở lại Nam Bộ, trực tiếp tổ chức lực lượng, tiến hành kháng chiến lâu dài.
Sau Ðại hội II của Ðảng (năm 1951), Anh Ba ra chiến khu Việt Bắc. Cùng thời gian diễn ra chiến dịch Ðiện Biên Phủ, Bác Hồ lại cử Anh Ba vào miền nam. Hiệp định Geneva được ký kết, đất nước tạm chia làm hai miền, Anh Ba được Bác Hồ giao nhiệm vụ tổ chức việc chuyển quân, tập kết, tuyên truyền giải thích chủ trương của Trung ương cho cán bộ và đồng bào miền nam. Trên đường vào nam, nhân dân khu V chào đón, nhưng Anh Ba khóc bởi Anh hiểu kẻ địch có thể không thi hành Hiệp định Geneva, đồng bào, đồng chí miền nam sẽ còn phải chịu đựng sự đàn áp và hy sinh nhiều nữa. Theo kế hoạch, kết thúc việc chuyển quân tập kết của Nam Bộ, Anh Ba sẽ ra miền bắc. Nhưng với linh tính chính trị nhạy bén, dự báo sáng suốt tình hình, Anh Ba nhiều lần thưa với Bác Hồ và Trung ương xin được ở lại miền nam. Bác Hồ đồng ý. Trên chuyến tàu cuối cùng ở thị trấn Sông Ðốc (Cà Mau), Anh Ba cũng lên boong tàu như người đi tập kết. Nhưng đến nửa đêm, Anh bí mật xuống ca-nô vào bờ để ở lại miền nam. Khi chia tay, Anh Ba xúc động nói với Anh Lê Ðức Thọ: "Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí ở trong này đều ngày đêm mong Bác mạnh khỏe, sống lâu. Anh cho tôi gửi lời chào Bác, anh Trường-Chinh và tất cả anh em ngoài đó. Tình thế này thì dễ đến 18, 20 năm nữa anh em ta mới gặp lại nhau". Lời tiên đoán ấy sau này thành sự thật.
Sau hai năm thi hành Hiệp định Geneva, con đường thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử đã thất bại. Mỹ - Diệm ra Luật 10-59, lê máy chém đi khắp miền nam, hô hào "Bắc tiến". Cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước ở miền nam chịu sự hy sinh vô cùng to lớn. Cách mạng miền nam như không có đường ra. Thấu hiểu lòng dân và ý chí cách mạng của quần chúng, suy nghĩ về thời cuộc quốc tế lúc bấy giờ, Anh Ba thảo ra đề cương "Ðường lối cách mạng Việt Nam ở miền nam". Ðề cương này đưa ra thảo luận, rất hào hứng, phấn khởi. Hội nghị Xứ ủy mở rộng tại Phnom Penh, được bổ sung thêm nhiều ý kiến. Giữa lúc đó, Bác Hồ lại quyết định điều Anh Ba ra bắc, giao cho trọng trách chuẩn bị Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 của T.Ư là luồng gió mới cực mạnh thổi bùng ngọn lửa cách mạng miền nam, mà đỉnh cao là phong trào "đồng khởi" cuối năm 1959 đầu 1960. Nghị quyết này cũng là cơ sở để Bác Hồ và Anh Ba cùng Bộ Chính trị chuẩn bị Báo cáo Chính trị tại Ðại hội III của Ðảng (9-1960) với hai chiến lược cách mạng. Ở Ðại hội III, Anh Ba được giao trọng trách Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng. Từ đây suốt chín năm ròng, Bác và Anh Ba như hình với bóng, cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị là một tập thể cộng sự đắc lực, là bộ tổng chỉ huy cao nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết định, Bác Hồ từ trần, để lại cho toàn Ðảng, toàn dân niềm tiếc thương vô hạn, không gì bù đắp được. Ðối với Anh Ba, đây là một tổn thất, một nỗi đau tột cùng. Những người giúp việc Anh Ba, kể lại rằng, trong những ngày đau buồn ấy, Anh khóc rất nhiều, nhưng Anh phải lấy lý trí để vượt qua, tập trung anh em lại hướng dẫn chuẩn bị một Ðiếu văn về Bác, cố gắng ngang tầm cao công lao của Người. Ðây không phải một Ðiếu văn bình thường của một tập thể với một con người mà là Ðiếu văn của toàn Ðảng, toàn dân tộc tôn vinh, ngưỡng mộ một bậc vĩ nhân, một lãnh tụ thiên tài và người thầy vĩ đại. "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người Anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ cho dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Giọng Quảng Trị, lại nói nhanh của Anh Ba vốn nghe không dễ. Nhưng ngày đó, đồng bào cả nước nghe giọng Anh đĩnh đạc, rõ ràng, sâu nặng tình nghĩa, thấu tận tâm can.
Thấu hiểu lòng dân và tin tưởng ở mỗi con người
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là trong chống Mỹ, cứu nước, Anh Ba đã phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn, sáng tạo. Một khi có đường lối đúng, quyết định thành bại là ở phương pháp cách mạng, là biết tổ chức và sử dụng lực lượng cách mạng. Tư tưởng "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "đại đoàn kết toàn dân tộc" của Bác thấm sâu vào máu thịt Anh Ba, nhuần nhuyễn bằng những sáng tạo độc đáo. Trở lại Nam Bộ những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Anh Ba hiểu hơn ai hết về trách nhiệm nặng nề mà Bác Hồ và Trung ương giao phó: Trực tiếp thay mặt Bác, Tổng Bí thư Trường-Chinh lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Cái khó lớn nhất đối với Anh Ba là dù có sáng tạo, nhưng phải chấp hành, thực hiện đúng chủ trương của Bác, Bộ Chính trị trong khi xa T.Ư, giao thông cách trở, liên lạc khó khăn. Anh tổ chức ngay Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Nam Bộ để củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức đảng từ toàn xứ đến tỉnh, huyện và cơ sở, làm hạt nhân lãnh đạo củng cố chính quyền kháng chiến non trẻ. Anh mở Hội nghị cán bộ quân sự Nam Bộ để thống nhất đường lối, chủ trương kháng chiến, lập căn cứ địa, xây dựng các lực lượng vũ trang thống nhất. Ngay từ những năm 1949, 1950, Anh Ba đã quan tâm giải quyết vấn đề ruộng đất ở Nam Bộ; thuyết phục, khơi dậy lòng yêu nước của các đại điền chủ hiến ruộng, chia cho nông dân. Anh Ba ngày đêm trăn trở làm sao thực hiện thật tốt chính sách đại đoàn kết của Bác Hồ. Tư tưởng của Bác, "năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay" thấm đậm trong suy nghĩ và hành động của Anh Ba. Bằng tình thương, lẽ phải, bằng tấm lòng nhân ái thật sự, Anh Ba đã cảm hóa được những người đứng đầu các giáo phái, các chức sắc, lôi cuốn họ vào mặt trận dân tộc thống nhất cùng nhau đánh giặc. Một trong những đặc trưng của cuộc kháng chiến Nam Bộ là đã quy tụ được đông đảo nhân sĩ trí thức tham gia. Các luật sư Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Diệp Ba, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Ðình Thảo; các giáo sư Ca Văn Thỉnh, Phạm Thiều, Hoàng Xuân Nhị; kỹ sư Kha Vạn Cân, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Hưởng, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, các trí thức tiêu biểu Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Trần Bửu Kiếm... đều có tên trong mặt trận kháng chiến, kiến quốc. Anh Ba thật sự đánh giá cao tài năng, trí tuệ của đội ngũ này, đưa họ giữ các chức vụ cao trong bộ máy kháng chiến hành chính Nam Bộ. Từ cách nghĩ, cách nhìn, sự tin cậy, bình đẳng với mọi người như thế, Anh Ba đã quy tụ được nhiều người. Ðồng bào Nam Bộ coi Anh là người thân gần gũi với cách gọi trìu mến: thằng Ba, chú Ba, cậu Ba... Cụ Cao Triều Phát, giáo chủ Cao Ðài 12 phái, một đại điền chủ, một nhân sĩ tiết tháo, sau này là Chủ tịch Mặt trận Liên - Việt Nam Bộ, cảm kích chí lớn và tấm lòng nhân hậu của Anh Ba, đã coi Anh như một người bạn thân thiết. Anh Phạm Ngọc Thạch kể: "Tôi theo cách mạng hồi đó chỉ là vì tình cảm, chứ không phải vì lý trí. Không phải là được giác ngộ mà là từ cái nhục mất nước, từ sức hút đạo đức, nhân cách và tình cảm chân thành của Anh Ba".
Bước vào cuộc chống Mỹ, cứu nước cũng vậy. Ðây là một thử thách rất lớn đối với Anh Ba. Nhưng lần này có khác trước, trọng trách của Anh Ba nặng nề hơn. Anh đã dốc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn bộ tinh lực của mình, toàn bộ tinh hoa trí tuệ, toàn bộ dũng cảm quyết tâm, toàn bộ phẩm chất của người con nhân dân, toàn bộ bản lĩnh của người lãnh đạo, từ bắt đầu kháng chiến cho đến ngày toàn thắng. Từ cuối năm 1954 đến giữa năm 1959, cách mạng miền nam trải qua những ngày tháng vô cùng khó khăn, gian khổ. Anh Ba hoạt động trong điều kiện cực kỳ khó khăn. Nhiều lúc Anh phải cải trang che mắt địch, nhiều thời gian sống trong nhà các gia đình tư sản lớn giữa Sài Gòn, Phnôm Pênh. (Sau ngày miền nam vừa giải phóng, Anh Ba đã đến từng gia đình thăm hỏi, tri ân cứu mạng).
Anh Võ Văn Kiệt kể lại: Sau ngày miền nam giải phóng, ta thực hiện cải tạo, nhưng thấu hiểu lòng dân, rất ít khi Anh Ba gọi "ngụy quân, ngụy quyền", "giáo viên, văn nghệ sĩ ngụy", "gia đình ngụy". Ở Khu 9, Ban binh vận mở cuộc họp gia đình có con đi lính phía bên kia, viết giấy mời "gửi gia đình binh sĩ ngụy", bà con không chịu đi. Sau phải sửa lại "gửi gia đình đau khổ" họ mới đi. Anh Kiệt đem việc này kể lại với Anh Ba, Anh Ba nói: "Như vậy mới là đạo lý...".
Anh Ðống Ngạc, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Duẩn kể lại: Trong những ngày Bác Hồ lâm bệnh, Anh Ba cùng Anh Tô (Phạm Văn Ðồng) thường xuyên bên Bác. Có lần Anh Ba đã mạnh dạn thưa với Bác, sau này miền nam được giải phóng, Bác cho phép thực hiện "cuộc đại xá", không trả thù, đàn áp. Bác gật đầu, đồng ý. Anh Ba rất xúc động.
Sáng suốt quyết định ở bước ngoặt
Ðể đánh thắng một kẻ thù hung bạo, có sức mạnh quân sự đồ sộ, một vấn đề không kém phần quyết định là tranh thủ sự đồng tình của bạn bè quốc tế, sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và phe XHCN. Không có sự ủng hộ chí tình này, nhân dân ta khó lòng thắng Mỹ. Tài ba của Bác Hồ, Anh Ba là đoàn kết được tất cả anh em, bè bạn, tạo ra một mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ Việt Nam, lên án cuộc chiến tranh. Nhưng Ðảng ta luôn độc lập, tự chủ về đường lối, chủ động điều hành cuộc chiến tranh. Cuộc đàm phán Paris đã kéo dài chưa từng có trong lịch sử ngoại giao. Ngày ấy, Anh Ba chỉ dặn anh Lê Ðức Thọ một điều, một nguyên tắc: Bàn gì thì bàn, nhưng điều cốt tử là "quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại". Ðiều này, thể hiện tầm nhìn sáng suốt và ý chí cách mạng triệt để của Anh Ba. Chính nội dung này trong Hiệp định Paris là cái tạo ra thế và lực mới để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền nam trong Ðại thắng mùa Xuân năm 1975.
Một vấn đề cũng cần phải nói, trong điều hành chiến tranh, đánh thắng bốn chiến lược quân sự của Mỹ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc, trong tư duy hành động của Anh Ba, có khi phải chấp nhận hy sinh, không chỉ để đánh gục ý chí xâm lược, mà còn buộc Mỹ xuống thang, đến bàn đàm phán. Nhưng toàn cục phải luôn tìm mọi con đường bớt đổ máu cho nhân dân. Ba mũi giáp công: chính trị - quân sự - binh vận, ba mặt trận: chính trị - quân sự - ngoại giao, là những biện pháp bớt phần xương máu cho cả hai bên. Từ những ngày đầu chống Mỹ, cứu nước, ngoài chủ trương thành lập các hình thức mặt trận thống nhất để tập hợp quần chúng, Anh Ba đã suy nghĩ đến lực lượng thứ ba sau này. Cũng theo lời anh Võ Văn Kiệt: Anh Phạm Ngọc Thảo, dân Tây, theo đạo dòng, cán bộ kháng chiến của ta, là người được Anh Ba trực tiếp chọn huấn luyện, bồi dưỡng, đưa vào hoạt động trong hàng ngũ địch. Không phải để hoạt động tình báo mà để cài cắm, liên hệ, chắp nối xây dựng lực lượng thứ ba, "những người quốc gia yêu nước" cho sau này. Sự tin cậy thật sự của Anh Ba là niềm tin thắp sáng trong anh Thảo, khi độc lập hoạt động, khi bị địch bắt tra tấn, tù đày, và anh dũng hy sinh như một người cộng sản kiên trung.
Mở đầu cuộc chiến tranh cứu nước đã khó, nhưng kết thúc cuộc chiến tranh càng khó hơn. Cái khó lần này không phải từ trong nước, mà từ tình hình quốc tế, khó từ sự đo lường "Mỹ có quay trở lại không?". Ðể trả lời câu hỏi này, Anh Ba đã mời cán bộ chủ chốt ở các miền, các tướng lĩnh trên các mặt trận ra họp để nghe, để thảo luận dân chủ trước khi hạ quyết tâm chiến lược trọng đại đối với toàn dân tộc, và chọn thời cơ chiến lược để giải phóng hoàn toàn miền nam. Trong thư gửi anh Phạm Hùng ngày 10-10-1974, sau khi kết luận Hội nghị Bộ Chính trị, Anh Ba viết: "Ðây là một quyết định rất dũng cảm, có thể nói là táo bạo. Song, quyết định này là kết quả của trí tuệ tập thể Bộ Chính trị, là kết quả của những suy nghĩ nung nấu từ lâu, của sự cân nhắc chín chắn xuất phát từ kinh nghiệm được tích lũy qua mấy mươi năm chiến đấu, xuất phát từ thực tiễn cách mạng trên chiến trường, từ lực lượng so sánh trong nước và trên thế giới".
Ít ngày sau chiến thắng 30-4, những người ra đón Anh Ba và Bác Tôn ở sân bay Tân Sơn Nhất, rất xúc động khi nghe Anh nói: "Chiến công này là chiến công chung của toàn dân tộc, của các anh hùng, chiến sĩ và đồng bào cả nước đã hy sinh. Ðối với mỗi chúng ta, công lao lớn nhất là chỉ mới hoàn thành nhiệm vụ. Không ai được kể công".