Trả lời: Hành vi buôn lậu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý chỉ cấu thành tội phạm khi giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng trước đó người vi phạm đã bị xử lý hành chính về hành vi quy định về tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 161 của Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Nếu đối tượng buôn lậu là nhưng vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì hành vi cấu thành tội phạm không phụ thuộc vào giá trị của vật phẩm.
Đối tượng buôn lậu là các loại hàng cấm thì phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một trong các điều đã nêu trên, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong trường hợp đặc biệt, hàng hóa là các chất ma túy, vũ khí quân dụng và phương tiện kỹ thuật, vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc thì sẽ bị xử lý theo những quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật Hình sự.
Tội phạm được hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi vận chuyển các loại hàng hóa qua biên giới nêu trên. Trường hợp khi hàng hóa đã vào nội địa mà bị phát hiện vẫn cấu thành tội buôn lậu.
-----------------
Vi phạm trong lĩnh vực XKLĐ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Hỏi: Các hành vi vi phạm nào trong lĩnh vực XKLĐ có thể bị xử lý hình sự và hình phạt đến mức nào là cao nhất ?
Trả lời: Vừa qua, liên bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an, Viện KSND Tối cao, TAND Tối cao đã ký Thông tư liên tịch hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) người có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ ra nước ngoài.
Theo thông tư này, sẽ “truy cứu TNHS người có hành vi tổ chức, cưỡng ép người lao động ở lại nước ngoài trái phép theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Hình sự”. Tội danh này có các khung hình phạt từ 2 đến 7 năm; 5 đến 12 năm và 12 đến 20 năm. Khi xét xử, tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt chung.
“Việc truy cứu TNHS người lao động ở lại nước ngoài trái phép theo quy định tại Điều 274 Bộ luật Hình sự (khung hình phạt từ 3 tháng đến 2 năm). TAND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước trước khi xuất cảnh có thẩm quyền xét xử các vụ án về tội ở lại nước ngoài trái phép và về tội Tổ chức, cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép. Việc khởi tố, điều tra và truy tố các tội nêu trên thuộc thẩm quyền của cơ quan An ninh Điều tra – công an cấp tỉnh và Viện KSND cấp tỉnh.
Khi phát hiện hành vi tổ chức, cưỡng ép người khác ở lại nước ngoài trái phép hoặc phát hiện người lao động có hành vi ở lại nước ngoài trái phép, Cục Quản lý lao động ngoài nước thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm và làm văn bản kiến nghị khởi tố. Trong trường hợp người lao động ở lại nước ngoài trái phép, sau đó trở về Việt Nam thì trên cơ sở danh sách người lao động bị khởi tố do cơ quan điều tra thông báo, Cục Quản lý Xuất nhập cảnh có trách nhiệm chỉ đạo các trạm công an cửa khẩu, khi phát hiện họ nhập cảnh về nước phải báo ngay cho cơ quan điều tra biết để xử lý theo thẩm quyền.
------------------
Trách nhiệm điều tra của tòa án khi giải quyết vụ án dân sự
Hỏi: Đề nghị quý báo cho biết khi giải quyết ly hôn, tòa án có quyền lấy lời khai của các bên sự (vợ, chồng) không hay phải do cơ quan điều tra thực hiện ? Việc thẩm phán mời đương sự, yêu cầu trả lời các câu hỏi của tòa về các vấn đề liên quan đến quan hệ và tài sản của vợ, chồng là đúng hay sai ?
Trả lời: Theo Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự, khi có yêu cầu khởi kiện, đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ việc, trách nhiệm chứng minh yêu cầu của mình trước tòa án trước hết thuộc về đương sự. Cụ thể, khi người chồng hoặc người vợ có yêu cầu ly hôn thì phải chứng minh tình trạng hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài hoặc khi có yêu cầu phân chia tài sản thì phải chứng minh quyền được hưởng phần tài sản mà mình đã yêu cầu.
Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán phải tự mình ghi lại lời khai của đương sự hoặc do thư ký tòa án ghi lại. Địa điểm lấy lời khai có thể là trụ sở tòa án hoặc bên ngoài trụ sở tòa án. Biên bản lấy lời khai phải được đọc lại cho đương sự nghe và ký tên (hoặc điểm chỉ). Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản. Trường hợp lấy lời khai ngoài trụ sở tòa án thì biên bản phải có người làm chứng hoặc xác nhận của ủy ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định thẩm phán được giao giải quyết vụ việc dân sự có thể thu thập chứng cứ bằng các biện pháp khác như lấy lời khai của người làm chứng, đối chất giữa các đương sự với nhau, phối hợp với ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét để thẩm định tại chỗ; ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thỏa thuận của các đương sự hoặc yêu cầu của một bên đương sự. Trường hợp cần thiết, thẩm phán thụ lý vụ việc có thể đề nghị tòa án ra quyết định ủy thác để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ.
Căn cứ quy định nêu trên, việc thẩm phán lấy lời khai của đương sự về các vấn đề liên quan đến yêu cầu ly hôn và chia tài sản khi ly hôn là đúng thẩm quyền.
---------------------
Luật sư có thể bào chữa cho người thân quen?
Hỏi: Anh trai tôi bị khởi tố bị can và bị tạm giam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Gia đình tôi rất lo lắng và muốn tìm người bảo vệ quyền lợi cho anh tôi. Gia đình tôi có người thân quen là luật sư của đoàn luật sư tỉnh ngoài, chúng tôi có thể mời người đó tham gia bào chữa cho anh tôi không?
Trả lời: Trước hết nói về người bào chữa: Theo quy định của pháp luật thì người bào chữa không nhất thiết phải là luật sư, mà có thể là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Khoản 1, Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Như vậy việc lựa chọn người bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho anh trai của chị phải do chính anh trai chị lựa chọn.
Trường hợp người bào chữa có thể không bảo đảm sự khách quan thì phải thay đổi. Khoản 2, Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định những người không được bào chữa, gồm: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người tham gia vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.
Như vậy, pháp luật không quy định những người thân quen của bị can, bị cáo không được tham gia bào chữa trong vụ án hình sự. Do đó, nếu luật sư đó là người thân quen của gia đình thì anh trai của chị có quyền mời luật sư đó bảo vệ quyền lợi cho mình. Để trở thành người bào chữa cho anh trai của chị thì luật sư đó còn phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận bào chữa.