Xác định nội dung trái pháp luật của văn bản

Để làm rõ hơn cơ sở pháp lý để kiểm tra xác định nội dung trái pháp luật của văn bản cần xem xét so sánh mối quan hệ của nó với cơ sở pháp lý để xây dựng, ban hành văn bản, giữa chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ.

Tại một thời điểm văn bản được kiểm tra , văn bản đó được cho là hợp pháp, nếu bảo đảm đủ 5 yếu tố bắt buộc: 1. Được ban hành đúng căn cứ pháp lý; 2. Được ban hành đúng thẩm quyền; 3. Nội dung của văn bản phù hợp với quy định của pháp luật; 4. Văn bản được ban hành đúng thể thức và kỹ thuật trình bày; 5. Tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ tục xây dựng, ban hành và đăng công báo, đưa tin hoặc công bố văn bản.

Để có được văn bản hợp pháp như vậy thì tại thời điểm kiểm tra văn bản, cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, ban hành chúng vẫn còn hiệu lực do vậy lúc đó nếu tiến hành kiểm tra thì cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế cũng lấy cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, ban hành làm cơ sở pháp lý để kiểm tra.

Tuy nhiên, với thực tế văn bản được ban hành nhiều như hiện nay ở nước ta sẽ dẫn đến tình trạng hàng ngày mỗi khi văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn được ban hành thì văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn luôn bị hết hiệu lực một phần hoặc toàn bộ. Do vậy cơ sở pháp lý để kiểm tra văn bản cũng luôn thay đổi theo từng ngày và hệ quả là văn bản của cấp dưới có nội dung chồng chéo, không thống nhất với cấp trên cũng hay xảy ra. Vì nếu kiểm tra ngay từ lúc văn bản được ban hành thì không mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, nhưng có thể 15 ngày sau, là ngày văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn (được đăng công báo) có hiệu lực thì văn bản cấp dưới được kiểm tra lại trở thành văn bản có nội dung trái với cấp trên.

Như vậy, tại một thời điểm nhất định, văn bản được kiểm tra không có nội dung trái pháp luật là lúc có thể hai cơ sở pháp lý để kiểm tra và cơ sở pháp lý để xây dựng, ban hành trùng nhau hoàn toàn.

Từ đó, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu, xem xét vấn đề thời hạn tiến hành kiểm tra văn bản. Hiện nay, Nghị định số 135/2003/NĐ-CP quy định tại Điều 18: "Trong thời hạn chậm nhất là 03 (ba) ngày, kể từ ngày ký ban hành, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản phải gửi văn bản đến cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản" mà chưa có quy định việc giới hạn thời gian mà cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra. Nếu hết thời gian đó thì đồng nghĩa với hết thời hiệu kiểm tra và xử lý văn bản có nội dung sai trái. Do chưa quy định thời hạn, cũng rất khó khăn trong việc xác định mức độ vi phạm và xử lý trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản sai trái . Vì có thể, nếu kiểm tra ngay sau khi văn bản được ban hành thì không nội dung sai trái, nhưng sau một thời gian do có văn bản mới của cấp trên được ban hành, đến lúc đó văn bản được kiểm tra thì lại có nội dung sai trái.

Việc không có quy định giới hạn thời gian kiểm tra như hiện nay, mặt thuận lợi là trong trường hợp mặc dù văn bản đã được ban hành rất lâu sau đó nếu cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế luôn có quyền kiểm tra và kiến nghị xử lý văn bản có nội dung sai trái, kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp đó cần quy định rõ là không xem xét việc áp dụng quy định tại Điều 8 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP: "Tùy theo tính chất và mức độ của văn bản trái pháp luật, cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật... phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật".

Việc không quy định giới hạn thời gian tiến hành kiểm tra văn bản như hiện nay, nên khi so sánh tính chất của hoạt động kiểm tra văn bản cho thấy hoạt động này có phần giống như việc thường xuyên hoặc định kỳ rà soát, hệ thống hóa văn bản. Do đó, chúng không có sự khác nhau về thời gian tiến hành. Tuy nhiên, nếu xét từ mục đích kiểm tra văn bản nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đồng thời kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật, thì để phục vụ kịp thời hoạt động quản lý nhà nước của các chủ thể ban hành văn bản cũng cần phải quy định giới hạn cụ thể thời hạn tiến hành kiểm tra văn bản.

Nếu hết thời hạn đó, các cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế phát hiện văn bản có nội dung sai trái thì coi đó là kết quả của công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản, đó cũng chính là nhiệm vụ phải tiến hành theo Điều 7 Nghị định số 135/2003/NĐ-CP: "Cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản phải thường xuyên và kịp thời rà soát, xác định văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực tại thời điểm kiểm tra văn bản để làm cơ sở pháp lý phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản".

Thông qua nghiên cứu, làm rõ những yêu cầu, mục đích của công tác kiểm tra văn bản là kịp thời phát hiện và xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật, sẽ tạo điều kiện để các cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế phát huy vai trò trách nhiệm trong kiểm tra, xử lý kịp thời văn bản sai trái. Đồng thời phải chú trọng rà soát chuẩn hóa hiệu lực văn bản để xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra văn bản.

PHAN HOÀNG NGỌC
(Báo Pháp luật)    

Có thể bạn quan tâm