Tính đến nay, tỉnh Vĩnh Long có 107 vùng trồng đã được cấp mã số, hàng chục cơ sở được chứng nhận các tiêu chuẩn GAP, ISO và tương đương, khoảng 30 cơ sở đóng gói nông sản xuất khẩu…
Nhân rộng mã số vùng trồng
Hợp tác xã chôm chôm Bình Hòa Phước thuộc huyện Long Hồ là một trong những hợp tác xã cây ăn quả đầu tiên được cấp mã số vùng trồng trên địa bàn tỉnh từ năm 2015. Đến nay, hợp tác xã đã có 36 trong số 42 ha chôm chôm được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, New Zealand…
Để được cấp mã số, 77 nông dân tham gia hợp tác xã đều thực hiện canh tác chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Giám đốc hợp tác xã Nguyễn Ngọc Nhân chia sẻ: "Hiện nay hợp tác xã quản lý mã số vùng trồng bằng cách theo dõi nhật ký ghi chép của thành viên tham gia. Sử dụng phân, thuốc bảo vệ thực vật đúng quy định cho phép và nhất là không ngừng tăng diện tích mã số. Bởi có diện tích mã số vùng trồng càng lớn thì càng dễ dàng liên kết với các công ty đưa sản phẩm đi xuất khẩu thuận lợi và rộng đường hơn".
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Long Hồ, từ đầu năm đến nay, huyện đã xây dựng 10 mã số vùng trồng với diện tích 271,5 ha. Lũy kế đến nay, huyện được cấp 32 mã số và cơ sở đóng gói với diện tích hơn 663 ha…
Việc được cấp mã số vùng trồng không chỉ giúp tiêu thụ hàng hóa ổn định hơn mà còn từng bước chuẩn hóa hoạt động trồng trọt, đáp ứng thị trường của bà con nông dân ở Vĩnh Long; từ đó thúc đẩy các chuỗi liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu, cũng như nhà khoa học, hạn chế rủi ro từ việc cung vượt cầu, được mùa, mất giá.
Ông Phạm Văn Thi, Tổ hợp tác bưởi Năm roi xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình cho biết: "Được cấp mã vùng trồng, các tổ viên rất phấn khởi, hoan nghênh. Thứ nhất là được tập huấn về khoa học kỹ thuật. Hai nữa là vấn đề xử lý phân, thuốc đúng theo chương trình VietGAP, an toàn sinh học. Hầu hết vùng trồng đều sử dụng phân hữu cơ".
Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trà Ôn Nguyễn Văn Tám cho biết, ngành sẽ phối hợp địa phương và các ngành chuyên môn của tỉnh tổ chức những đoàn khảo sát, nhất là công tác tuyên truyền để mã số vùng trồng thực hiện theo đúng quy định và tiếp đó có thể nhân rộng mã số vùng trồng cho toàn huyện.
Hiện, toàn tỉnh Vĩnh Long có hơn 90 cơ sở được cấp 107 mã số vùng trồng, trong đó 92 mã số được cấp trên cây ăn trái. Dù vậy, việc mở rộng diện tích cây ăn trái được cấp mã số còn khiêm tốn so với tổng diện tích vườn cây ăn trái phát triển của tỉnh (hơn 68.000 ha). Hiện, các địa phương đang tích cực tuyên truyền nông dân chủ động tham gia vào sản xuất theo chuỗi, cũng như đẩy nhanh tiến độ làm hồ sơ xin cấp mã số vùng trồng.
Nhiều chính sách hỗ trợ
Mã số vùng trồng chính là giấy thông hành để xuất khẩu nông sản chính ngạch vào hầu hết các thị trường, là xu hướng chung mà nông dân phải đáp ứng để ổn định đầu ra cho sản phẩm. Từ hiệu quả ban đầu cũng như nỗ lực mở rộng các chuỗi liên kết, xuất khẩu, kỳ vọng diện tích nông sản nói chung và trái cây nói riêng được cấp mã số trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long sẽ ngày càng tăng lên, làm giàu cho nông dân.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trương Thành Dãnh cho biết: Sản xuất nông nghiệp của tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả; chuyển dần sang kinh tế nông nghiệp, giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện tích không ngừng tăng lên.
Sản xuất nông nghiệp của tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả; chuyển dần sang kinh tế nông nghiệp, giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện tích không ngừng tăng lên.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trương Thành Dãnh
Năm 2021, giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện tích trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 350 triệu đồng/ha/năm; vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ 11 (chỉ tiêu 280 triệu đồng/ha/năm). Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn còn không ít các khó khăn như: Sản xuất quy mô nhỏ lẻ, chất lượng một số nông sản chưa được quan tâm đúng mức, liên kết và tiêu thụ vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Riêng cây ăn quả đang là hướng chuyển dịch mạnh trong nội bộ lĩnh vực trồng trọt. Người dân chuyển dần các diện tích sản xuất lúa sang trồng cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Diện tích cây ăn quả tăng mạnh, đến cuối năm 2022 là 57.179 ha; tăng 7.373 ha so với năm 2020 (tăng gần 15% so với năm 2020). Việc chuyển dịch mạnh mẽ này đã góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lữ Quang Ngời, tỉnh luôn xác định quy hoạch vùng trồng là nhiệm vụ quan trọng, vừa bảo đảm xây dựng vùng hàng hóa tập trung, vừa giúp công tác đầu tư đúng mục tiêu, tránh dàn trải. Hiện nay, tỉnh đã xây dựng Kế hoạch Sản xuất cây trồng chủ lực để định hướng phát triển và tổ chức sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt; dự kiến đến năm 2030, diện tích đạt 169.500 ha, sản lượng khoảng 2,6 triệu tấn/năm.
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người nông dân. Công tác triển khai, tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật liên quan được tỉnh thực hiện kịp thời, hiệu quả. Vĩnh Long đã xây dựng liên kết tiêu thụ với 11 doanh nghiệp, gồm 47 mã số vùng trồng trên cây sầu riêng, khoai lang… có diện tích hơn 1.200 ha.
Hiện nay, tỉnh đã xây dựng Kế hoạch Sản xuất cây trồng chủ lực để định hướng phát triển và tổ chức sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt; dự kiến đến năm 2030, diện tích đạt 169.500 ha, sản lượng khoảng 2,6 triệu tấn/năm.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lữ Quang Ngời
Có bảy doanh nghiệp tiếp tục liên kết địa phương trong xây dựng mã số vùng trồng và liên kết tiêu thụ nông sản xuất khẩu. Tổng sản lượng nông sản xuất khẩu của tỉnh hằng năm hơn 32.000 tấn. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là Trung Quốc với sản lượng 17.486,4 tấn khoai lang; 950 tấn mít; 167 tấn sầu riêng…
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long nhấn mạnh, để đạt mục tiêu đề ra, thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện một số giải pháp trọng tâm như: Nghiên cứu bổ sung các chỉ tiêu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói vào Nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch hành động phát triển kinh tế-xã hội hằng năm của tỉnh; tập trung phát triển vùng cây trồng theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội; huy động nguồn lực hỗ trợ người dân xây dựng mã số vùng trồng, đóng gói sản phẩm, truy xuất nguồn gốc, liên kết tiêu thụ nông sản.
Đặc biệt, có các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp nhằm khuyến khích, phát triển các vùng trồng và cơ sở đóng gói theo quy mô sản xuất hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu; xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện công tác thiết lập và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói theo đúng hướng dẫn Trung ương; chú trọng các quy định, điều kiện sản xuất phục vụ truy xuất nguồn gốc, các chương trình giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật; thực hiện nghiêm công tác quản lý, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số...