Khi điện ảnh Việt Nam xóa bỏ bao cấp và bước vào cơ chế thị trường, sự phân biệt phim thương mại và phim nghệ thuật lập tức xuất hiện. Suốt trong những năm đầu thập kỷ 90, phim thương mại "được" xếp cùng với loại phim "mì ăn liền" - loại phim câu khách rẻ tiền, bởi vậy thường bị phê phán. Hiểu về phim thương mại như vậy không đúng vì rất nhiều phim "mì ăn liền" làm ra với mục đích kiếm lời nhưng lại không có giá trị thương mại, rất ế khách do sự hời hợt của nội dung và non kém về tay nghề. Chúng ta nên phê phán xu hướng thương mại hóa điện ảnh (chạy theo đồng tiền bất kể tính thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật của "sản phẩm"), nhưng nên ủng hộ những phim có nội dung lành mạnh, có tính giáo dục mà lại thu hút được đông khán giả nhờ cách dàn dựng hấp dẫn. Ðây mới là phim thương mại thật sự, và cái đích của những người làm điện ảnh là tìm cách để ngày càng tăng tính nghệ thuật trong các phim thuộc dòng này.
Bên cạnh đó, những bộ phim có nhiều tìm tòi và sáng tạo về nghệ thuật, phản ánh được chiều sâu tâm hồn Việt Nam và sự chuyển mình của đất nước hôm nay... đáng được khuyến khích hàng đầu. Ðó là những phim vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có giá trị xã hội. Nhưng cần cảnh giác với những sự ngụy biện trước những bộ phim không gây được sự quan tâm của cả công chúng lẫn giới nghề nghiệp nhưng lại tự xếp vào dòng phim nghệ thuật. Trên thế giới, cách gọi phim thương mại (commercial) và phim nghệ thuật (artistic) từ lâu đã khá phổ biến. Loại thứ nhất chỉ các phim có doanh thu và lợi nhuận cao; loại thứ hai chỉ các phim chú trọng đến yếu tố tìm tòi và thể nghiệm nghệ thuật, cố gắng trở thành "thượng khách" tại các Liên hoan phim quốc tế (LHPQT) danh giá. Nhưng cũng có không ít người trong giới điện ảnh Mỹ cho rằng chỉ có sự phân biệt giữa phim Hô-li-út và phim của các hãng phim độc lập. Tôi cho rằng, mọi sự phân biệt đều chỉ mang ý nghĩa tương đối, nhất là trong gần một thập kỷ nay, ranh giới giữa phim thương mại và phim nghệ thuật ngày càng trở nên không rõ ràng. Có nhiều phim lợi nhuận cao kỷ lục nhưng không ai dám khẳng định đó chỉ là phim thương mại, bởi nó giành nhiều giải thưởng lớn mà tất cả các nhà làm điện ảnh đều phải mơ ước. Như vậy, cách đi của nhiều nhà làm phim nổi tiếng là đưa yếu tố hấp dẫn vào các bộ phim nghệ thuật và đầu tư sự tìm tòi nghệ thuật vào phim thương mại.
Giá trị của một tác phẩm điện ảnh cần được xét từ hai khía cạnh: một là nâng cao và hai là phổ cập. Khía cạnh thứ nhất là nâng cao nhận thức, chú trọng đến giáo dục và bồi dưỡng thẩm mỹ cho người xem; khía cạnh thứ hai là đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của công chúng. Những tác phẩm thuộc loại thứ nhất thường được sự đón nhận của các khán giả chọn lọc, còn loại thứ hai sẽ được quảng đại quần chúng hưởng ứng. Vấn đề mấu chốt là các nhà sáng tác, nhà lý luận - phê bình cần chủ động làm cho ngày càng có nhiều khán giả thuộc quảng đại quần chúng yêu thích các bộ phim thuộc loại nâng cao và ngược lại, các khán giả chọn lọc quan tâm đến những phim thuộc loại phổ cập. Một nền điện ảnh có nhiều dòng, nhiều loại phim cùng tồn tại, và mỗi tác phẩm điện ảnh đều phát huy được giá trị của mình trong xã hội thì đó là một nền điện ảnh phát triển vững chắc.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, điện ảnh Việt Nam cần đi theo quy luật mà các nền điện ảnh phát triển đã đi. Nhưng trong tình hình thực tế của chúng ta, chưa thể "thả nổi" điện ảnh vào cơ chế thị trường mà cần phát triển song song cả dòng phim nhà nước và dòng phim tư nhân để mỗi dòng phim phát huy hết tác dụng của mình đối với xã hội. Cái đích trong những năm tới là hãy làm sao cho dòng phim tư nhân không chỉ là những phim giải trí mà có cả những tác phẩm nghệ thuật cao thực sự (chứ không phải loại phim được nguỵ biện là phim nghệ thuật), còn dòng phim nhà nước đặt hàng có nhiều bộ phim được đánh giá cao tại các LHPQT nhưng đồng thời cũng tìm được sự ái mộ của công chúng trong nước.