Về những sai phạm ở Tổng công ty Thủy sản Việt Nam

Trụ sở Seaprodex
tại TP Hồ Chí Minh.
Trụ sở Seaprodex tại TP Hồ Chí Minh.

Quá trình hình thành Seaprodex

Tại trụ sở Tổng công ty, đường Ðồng Khởi, quận 1, TP Hồ Chí Minh, chúng tôi lần lượt làm việc với các vị: Bí thư Ðảng ủy Tổng công ty thủy sản Việt Nam, Quyền Chủ tịch Hội đồng quản trị, nguyên Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Chủ tịch công đoàn, Ban tổ chức Tổng công ty, Chánh văn phòng tổng công ty và một số công ty thành viên của tổng công ty. Mặt khác, chúng tôi cũng nghiên cứu cả gần nghìn trang tài liệu có liên quan tài chính của Tổng công ty thủy sản Việt Nam qua các thời kỳ. Bí thư Ðảng ủy Tổng công ty cho biết, quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty thủy sản Việt Nam qua nhiều giai đoạn, qua nhiều thế hệ lãnh đạo, có nhiều tồn tại về tài chính trước khi thành lập Tổng công ty thủy sản Việt Nam chưa được giải quyết. Những thông tin chưa đầy đủ về tình hình tài chính của Tổng công ty thủy sản Việt Nam khiến cho các đơn vị thành viên đang sản xuất, kinh doanh có hiệu quả gặp rất nhiều khó khăn trong giao dịch với bạn hàng trong nước, ngoài nước và vay vốn ngân hàng.

Tổng công ty thủy sản Việt Nam hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn: Giai đoạn từ  năm 1978 đến 1995: Công ty xuất nhập khẩu thủy sản (tiền thân của Tổng công ty thủy sản Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 155/CP ngày 26-6-1978 của Chính phủ. Từ năm 1978 đến 1980, hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản trong cơ chế bao cấp, doanh nghiệp kinh doanh sa sút, đứng trước nguy cơ phá sản. Giai đoạn từ năm 1981 đến 1992, thực hiện cơ chế "tự cân đối, tự trang trải", là thời kỳ "hoàng kim" của Seaprodex, tạo ra sinh khí mới cho hoạt động nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản và kinh doanh đa dạng. Ðồng thời mở ra hình thức đầu tư liên doanh, liên kết với nước ngoài đạt hiệu quả kinh tế cao. Seaprodex góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng ngoại tệ cho Nhà nước, thu hút đầu tư bên ngoài, các khoản nộp ngân sách Nhà nước đều tăng, đời sống cho hàng vạn cán bộ, công nhân, viên chức và hàng triệu ngư dân được cải thiện. Từ năm 1993 đến 1995, thực hiện Nghị định 388 của Chính phủ, các đơn vị thành viên của Seaprodex được thành lập lại và hạch toán độc lập, trực thuộc Bộ Thủy sản. Bộ Thủy sản giao cho Seaprodex theo dõi, tổng hợp tình hình của các đơn vị này báo cáo bộ.

Tổng công ty thủy sản Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 909 ngày 18-11-1995 của Bộ Thủy sản, trên cơ sở tập hợp 17 đơn vị thành viên được Nhà nước (Bộ Tài chính) giao vốn 374 tỷ đồng. Seaprodex Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo điều lệ đã được Bộ Thủy sản phê duyệt tại Quyết định 309 ngày 24-2-1996. Ðến tháng 7-1997, Bộ Thủy sản giao cho Tổng công ty tiếp nhận thêm 11 đơn vị trực thuộc bộ, nhưng chưa được giao vốn. Lãnh đạo của Tổng công ty thủy sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay qua nhiều lớp cán bộ lãnh đạo: Từ tháng 12-1995 đến năm 1998, ông Võ Văn Trác, Chủ tịch Hội đồng quản trị (HÐQT), ông Lê Văn Phát, Tổng giám đốc; từ năm 1998 đến 2000, ông Lê Văn Phát, Chủ tịch HÐQT; từ tháng 11-1998, đến ngày 5-7-2004 ông Nguyễn Ðình Phương, Tổng giám đốc (hiện đang bị đình chỉ chức vụ ủy viên HÐQT, Tổng giám đốc); từ năm 2000 đến nay, ông Phạm Mạnh Hoạt, quyền Chủ tịch HÐQT.

Tồn tại về tài chính khi Nhà nước giao vốn cho Tổng công ty (năm 1995): nợ khó đòi 76,541 tỷ đồng; nợ đến hạn không có khả năng thanh toán: 24,600 tỷ đồng; lỗ lũy kế: 26,938 tỷ đồng; tài sản kém phẩm chất: 9,912 tỷ đồng.

Tồn tại về tài chính đến ngày 31-12-1998: nợ khó đòi: 102 tỷ đồng; nợ đến hạn không có khả năng thanh toán: 168 tỷ đồng; lỗ lũy kế: 85 tỷ đồng; tài sản kém phẩm chất: 6,8 tỷ đồng. Có bảy đơn vị thành viên có tồn tại lớn về tài chính (thuộc diện phá sản, giải thể) gồm: Công ty nuôi trồng thủy sản, Công ty vận tải biển và xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nội; Công ty cung ứng vật tư và dịch vụ nuôi tôm xuất khẩu; Công ty cơ khí II Ðà Nẵng; Công ty khai thác đặc sản biển; Công ty nuôi trồng thủy sản trung ương; Công ty thủy sản Khu vực II Ðà Nẵng.

Về tình hình tài chính của 11 đơn vị thành viên gia nhập Tổng công ty năm 1997: Tổng số vốn xác định là: 26.069.431.418 đồng (Bộ Tài chính chưa giao và Tổng công ty cũng chưa được nhận vốn); lỗ lũy kế (đến 31-12-1998) là: 16.405.405.343 đồng.

Trách nhiệm của một số người có liên quan

Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước thì tổng số vốn bị mất, nguy cơ bị mất vốn, nợ không có  khả năng thanh toán của Seaprodex Việt Nam tính đến ngày 31-12-2001 là hơn 519 tỷ đồng và 3,86 triệu USD. Trong số đó, tổng số nợ phải thu khó đòi, nợ phải trả nhưng không có khả năng thanh toán, lỗ lũy kế, hàng hóa mất phẩm chất thuộc các đơn vị thành viên trước khi gia nhập Tổng Công ty là: 318 tỷ đồng. Cũng theo kết luận của đoàn thanh tra, chịu trách nhiệm về những thiệt hại thuộc về lãnh đạo của Tổng công ty qua các thời kỳ là hơn 60 vị từng là giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng các công ty thành viên trước và sau năm 1995. Số lớn những vị này, hầu hết đã về hưu hoặc chuyển công tác khác.

Về một số khoản nợ ở Công ty xuất nhập khẩu thủy sản TP Hồ Chí Minh, bao gồm, nợ khó đòi: 39.288.029.000 đồng (trước tháng 3-1992 đã là 39.209.870.000 đồng và số phát sinh từ sau tháng 3-1992 đến năm 1996 là 78.159.000 đồng). Trong đó: 27,8 tỷ đồng của 16 đơn vị có biên bản đối chiếu công nợ đã lên lưới nợ của Ban thanh toán công nợ trung ương và 11,4 tỷ đồng phát sinh trước năm 1992 không có hồ sơ chi tiết; 78,159 triệu đồng phát sinh năm 1996 là phí tồn kho các Công ty Tây Nam và Công ty thủy sản Thuận Hải. Trước khi sáp nhập trung tâm thương mại xuất nhập khẩu, Công ty kho vận và Công ty vận tải biển thành Công ty xuất nhập khẩu thủy sản TP Hồ Chí Minh, khoản nợ phải thu 11,4 tỷ đồng không có hồ sơ chi tiết.

Ba đơn vị này, trước khi sáp nhập không đối chiếu xác nhận về những khoản nợ phải thu với các đơn vị theo chủ trương của Nhà nước về thanh toán công nợ giai đoạn II năm 1991 mà chỉ giao cho Công ty xuất nhập khẩu thủy sản TP Hồ Chí Minh theo số liệu trên sổ sách. Khoản nợ quá hạn phải trả trước năm 1995: 32.362.143.299 đồng; trong đó 24,74 tỷ đồng (tương đương 1.675.545 USD) là số tiền của chín đơn vị chuyển cho Công ty xuất nhập khẩu thủy sản TP Hồ Chí Minh để trả nợ nước ngoài. Công ty xuất nhập khẩu thủy sản TP Hồ Chí Minh đã chuyển số tiền này trả nợ nước ngoài cho Seaprodex. Còn lại 7,6 tỷ đồng, là khoản nợ nhận bàn giao năm 1992. Hai khoản nợ trên phát sinh trước năm 1992, được bàn giao qua nhiều đời giám đốc.

Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước, ông Nguyễn Ðình Phương, chịu trách nhiệm về việc khi còn là Phó Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam đã ký văn bản đồng ý cho tàu Sea 08 của Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội hoạt động trở lại khi đã có văn bản của Tổng giám đốc Lê Văn Phát cho ngừng hoạt động. Sự việc này diễn biến như sau:

Căn cứ đề nghị tại Công văn số 43/VTB ngày 1-3-1997 của Giám đốc Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội xin ngừng kinh doanh nghiệp vụ tàu vận tải, Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam đã có Công văn số 91CV/KTKHKT ngày 11-3-1997 đồng ý ngưng hoạt động tàu Sea 08 từ ngày 1-3-1997, chờ quyết định của Tổng công ty. Ðồng thời giao cho công ty có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn mọi trang thiết bị và hạch toán mọi khoản chi phí, ngừng khấu hao tài sản cố định theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước.

Ngày 28-4-1997, Giám đốc công ty nói trên lại có Công văn số 76/VTB gửi Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam đề nghị đưa tàu Sea 08 đi khai thác. Giám đốc Công ty nêu khó khăn khi neo đậu tàu ở Hải Phòng: Vỏ tàu bị hàu bám nhiều, trên mặt boong gỉ sét; phần máy và thiết bị hàng hải để lâu phải tẩm sấy; nếu có bão phải đưa tàu ra Bạch Ðằng hoặc vịnh Hạ Long để tránh bão (việc này cực kỳ khó khăn vì liên quan đến tài chính và thuê thuyền viên). Trong khi đó, chủ hàng Animex có nhu cầu vận chuyển thịt lợn đi Vladivostock (Nga) (hằng tháng 500 tấn), Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội đề nghị với Ban giám đốc Tổng công ty cho tàu Sea 08 hoạt động trở lại.

Ngày 22-5-1997, Giám đốc công ty lại có Công văn số 86/VTB-XNK gửi Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam, nội dung như sau: Ðể thực hiện chủ trương của Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam, Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội đã tiến hành giao dịch mượn thuyền viên và đã được Xí nghiệp vận tải Seaprodex Sài Gòn chấp thuận. Ðể sớm đưa tàu đi vào kinh doanh, Công ty ký hợp đồng vận chuyển với chủ hàng và tiến hành sửa chữa tàu. Ðề nghị Tổng giám đốc sớm có văn bản cho tàu Sea 08 vào khai thác.

Ngày 25-5-1997, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam Nguyễn Ðình Phương ký Công văn số 210/KTKHKT gửi Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội, nội dung như sau: Căn cứ đề nghị của giám đốc Công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội tại Công văn số 86/VTB-XNK ngày 22-5-1997 về việc: Ðưa tàu Sea 08 đi khai thác. Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam đồng ý cho tàu Sea 08 hoạt động một chuyến biển kể từ ngày 25-5-1997. Giám đốc công ty vận tải biển xuất nhập khẩu Seaprodex Hà Nội có trách nhiệm đưa tàu 08 đi khai thác, bảo đảm có hiệu quả kinh tế. Không có bút tích của ông Lê Văn Phát (lúc đó là Tổng giám đốc Tổng công ty) ủy quyền cho ông Nguyễn Ðình Phương ký công văn nêu trên.

Ông Nguyễn Ðình Phương khi còn là Phó Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam ký giấy bảo lãnh số 119/TS/TCKT ngày 25-6-1996, tạo điều kiện cho Vinases được vay sáu tỷ đồng tại chi nhánh Vietcombank thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ vào công văn đề nghị của Vinases, Tổng công ty Thủy sản Việt Nam đã có Công văn số 119/TS/TCKT gửi Ngân hàng Vietcombank TP Hồ Chí Minh và đề nghị cho công ty vay vốn tín dụng theo chế độ hiện hành của ngân hàng. Tổng công ty thủy sản Việt Nam chịu trách nhiệm đôn đốc hoàn trả vốn và lãi đúng hạn. Nhưng trước khi có công văn của Tổng công ty thủy sản Việt Nam thì số dư nợ tại Ngân hàng ngoại thương TP Hồ Chí Minh sáu tỷ đồng và việc mua bán hàng hóa của công ty theo hợp đồng kinh tế đã thu đủ tiền.

Ðến ngày 20-10-1999, Vinases còn nợ ngân hàng Vietcombank TP Hồ Chí Minh là: 3.149.000.000 đồng, khoản này đã được Ngân hàng Nhà nước cho khoanh nợ và nguồn bảo đảm thanh toán số nợ này là khoản phải thu của Công ty tơ Việt - Ý: 1,3 tỷ đồng và tiền dầu nhớt: 2,7 tỷ đồng. Giám đốc Vinases đã có Công văn số 95/CVNTXK, ngày 20-10-1999 gửi Bộ trưởng Bộ Thủy sản nhận trách nhiệm về khoản nợ này.

Một số sai phạm khác, ông Phương không trực tiếp ký nhưng diễn ra trong thời gian ông này làm Tổng giám đốc cũng phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu, điều hành doanh nghiệp.

Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước, ông Ðặng Nguyên Dũng, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty thủy sản Việt Nam chịu trách nhiệm về việc phát sinh, theo dõi và xử lý các khoản nợ phải thu khó đòi 11.079.626.902 đồng, khoản lỗ 3.214.412.222 đồng; chịu trách nhiệm về số hàng hóa kém phẩm chất là 1.869.832.290 đồng và việc mất 4.385,6 kg tôm xuất khẩu trị giá 638.565.809 đồng; chịu trách nhiệm về việc bán cá dấm trắng, cá sơn la không thể hiện trên sổ sách, trị giá 303.022.915 đồng. Với tư cách là Phó Tổng giám đốc, kiêm trưởng ban dự án xây dựng khu trung tâm chế biến mới, ông Ðặng Nguyên Dũng chịu trách nhiệm về việc ký hợp đồng kinh tế tư vấn, duyệt chi không có căn cứ số tiền: 430.672.724 đồng và chi sai quy định số tiền: 825.776.000 đồng.

Ông Lê Hòa Bình với tư cách là Giám đốc liên doanh thủy sản Việt-Xô từ năm 1993 đến 1996, chịu trách nhiệm về liên doanh bị lỗ 2,674 tỷ đồng. Với tư cách là Phó Tổng giám đốc, ông này còn phải chịu trách nhiệm về việc ký hợp đồng số 01/HÐ-BQLDA với Công ty TNHH Toàn Thiện, cùng ông Võ Văn Trác, nguyên Chủ tịch HÐQT, ông Lê Văn Phát, nguyên Tổng giám đốc và bà Nguyễn Thị Thúy Lan, nguyên kế toán trưởng Tổng công ty, chịu trách nhiệm về khoản nợ khó đòi với Công ty TNHH Toàn Thiện là 67.173,49 USD (tương đương 1.051.063.598 đồng). Với tư cách là phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp về việc ký hợp đồng số 01/HÐ-BQLDA với Công ty tư vấn xây dựng C&C không đúng quy định và cho tạm ứng 63 triệu đồng.

Về dự án xây dựng trung tâm chế biến thủy sản mới

Ðể tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản Việt Nam, ngày 17-9-1998, HÐQT Tổng công ty đã họp và ra Nghị quyết xây dựng trung tâm chế biến mới với thiết bị hiện đại. Thực hiện Nghị quyết của HÐQT, Tổng công ty đã lập dự án khả thi và được Bộ Thủy sản phê duyệt tại Quyết định số 958/QÐ-BTS ngày 23-12-1999. Nội dung quyết định chỉ rõ, địa điểm thực hiện dự án đầu tư xây dựng Trung tâm chế biến thủy sản Seaprodex tại khu công nghiệp Tân Tạo TP Hồ Chí Minh; Tổng công ty là chủ đầu tư; tổng mức đầu tư hơn 82 tỷ đồng, trong đó vốn tín dụng ưu đãi 75 tỷ đồng, vốn tự bổ sung hơn 7,3 tỷ đồng. Xét thấy đặt địa điểm đầu tư ở Tân Tạo không hợp lý, Tổng công ty kiến nghị với những lý do: Nền đất ở Tân Tạo yếu, nếu tiếp tục xây dựng phải chi phí quá tốn kém. Mặt khác, giá thuê đất tại khu Sóng Thần II thấp hơn so giá thuê ở Tân Tạo... Kiến nghị của Tổng công ty đã được Bộ Thủy sản chấp thuận chuyển địa điểm về khu công nghiệp Sóng Thần II tại công văn số 1978/KHÐT ngày 5-7-2000. Tổng công ty đã ký hợp đồng với Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế Bộ Thủy sản để lập hồ sơ thiết kế và các hạng mục công trình của dự án, được Bộ Thủy sản phê duyệt tại  Quyết  định  411/QÐ-BTS, ngày 18-5-2001. Trước đó, Bộ đã phê duyệt kế hoạch đấu thầu dự án tại Quyết định số 305/QÐ-BTS, ngày 13-4-2001. Theo đó, Tổng công ty mời Công ty VASEP lập hồ sơ mời thầu, nhưng công ty này không lập được hồ sơ mời thầu vì thiết kế kỹ thuật có nhiều sai sót. Ngày 8-7-2002, tại Công văn số 480/CLNN, Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản đánh giá: "thiết kế kỹ thuật dự án này lãng phí về diện tích, chưa phù hợp với công nghệ và chưa bảo đảm an toàn vệ sinh". Ngày 5-2-2002, ông Lê Hòa Bình, Phó tổng giám đốc Tổng công ty ký hợp đồng số 01/HÐ-BQLDA với Công ty TNHH tư vấn xây dựng C&C về việc thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, lập tổng dự toán các dự án trị giá 210 triệu đồng (đã tạm ứng 63 triệu đồng) nhưng không báo cáo Bộ Thủy sản; điều đó không đúng quy chế quản lý đầu tư xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NÐ-CP của Chính phủ. Ðến ngày 31-12-2003 tổng số vốn chi phí đầu tư vào dự án hơn 16,2 tỷ đồng, trong đó chi phí tư vấn các loại hơn 748 triệu đồng, tạm ứng đặt cọc 210.600.000 đồng; xây dựng công trình phụ trợ hơn 686 triệu đồng, thuê đất hơn 12,9 tỷ đồng, chi phí quản lý và chi phí hành chính hơn 1,2 tỷ đồng. Ðến tháng 3-2003, HÐQT Tổng công ty có nghị quyết về việc dừng thực hiện dự án vì thiết kế kỹ thuật và dự toán có nhiều sai sót. Ðồng thời giao phần đất đã thuê cho các đơn vị thành viên trên địa bàn TP Hồ Chí Minh để di chuyển các nhà máy chế biến ra khỏi nội thành. Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước, quá trình triển khai thực hiện dự án đã có một số sai phạm:

Trước khi Dự án khả thi được Bộ Thủy sản phê duyệt, ông Ðặng Nguyên Dũng, Phó tổng giám đốc Tổng công ty đã ký văn bản số 72/BTT-TLD-KD, ngày 1-7-1999 về việc thỏa thuận với Công ty đầu tư xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Tân Tạo thuê đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng Trung tâm chế biến thủy sản, chi 10 nghìn USD (139 triệu đồng tiền đặt cọc thuê đất) là việc làm không đúng quy định. Khi dự án này chuyển về Khu công nghiệp Sóng Thần II, số tiền đặt cọc nói trên không có khả năng thu hồi được. Sai phạm trong các hợp đồng kinh tế với công ty tư vấn đầu tư và thiết kế: Ngày 1-7-1999, ông Ðặng Nguyên Dũng ký hợp đồng kinh tế số 46/HÐ-TVXD với Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế (Bộ Thủy sản) về việc giao, nhận thầu tư vấn lập dự án khả thi Trung tâm chế biến thủy sản xuất khẩu Seaprodex tại khu công nghiệp Tân Tạo trị giá 251 triệu đồng. Ngày 24-12-1999 hai bên ký biên bản nghiệm thu số 25/TK-XD trị giá khối lượng công việc hoàn thành là 224.124.142 đồng. Ðến ngày 19-1-2000, hai bên ký biên bản thanh lý hợp đồng, số tiền đã chi trả công ty tư vấn đầu tư thiết kế hơn 224,1 triệu đồng. Ngày 1-7-1999, ông Ðặng Nguyên Dũng ký hợp đồng kinh tế số 02/HÐ-QLDA với công ty tư vấn đầu tư và thiết kế về việc khảo sát, điều tra thu thập số liệu địa chất tại khu công nghiệp Tân Tạo với giá tạm tính hơn 103 triệu đồng; ngày 21-9-2000, hai bên ký biên bản nghiệm thu số 65/BB-NT, xác định giá trị khối lượng thực hiện hơn 100 triệu đồng. Ngày 22-8-2000, ông Ðặng Nguyên Dũng ký hợp đồng kinh tế số 116/HÐ-TVXD với Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế về việc điều chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Trung tâm chế biến thủy sản xuất khẩu Seaprodex là do thay đổi địa điểm từ khu công nghiệp Tân Tạo về khu công nghiệp Sóng Thần II. Ngày 20-9-2000, hai bên có biên bản nghiệm thu khối lượng công việc trị giá hơn 106 triệu đồng. Như vậy, ông Ðặng Nguyên Dũng ký ba hợp đồng kinh tế với Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế nói trên, không được thực hiện trên thực tế, việc chi trả tiền cho ba hợp đồng nói trên với số tiền 430.672.724 đồng là không có cơ sở.

Về việc sử dụng vốn cổ phần hóa

Ðến ngày 31-12-2000, Tổng công ty đã cổ phần hóa được chín đơn vị thành viên. Tổng giá trị phần vốn Nhà nước thời điểm xác định vốn để thực hiện việc cổ phần hóa của các công ty là 112.517.192.459 đồng. Trong đó, các khoản khấu trừ 60.488.187.293 đồng, bao gồm cổ phần Nhà nước tại các công ty cổ phần (45.853.000.000 đồng), cổ phần bán ưu đãi cho người lao động giảm giá 30% (9.630.810.000 đồng), cổ phần bán ưu đãi cho người nghèo, trả chậm (1.584.380.000 đồng) và chi phí trong quá trình tiến hành cổ phần hóa (3.419.997.293 đồng). Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước, đến ngày 31-12-2003, số tiền thu được từ việc bán phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần là 32.085.495.382 đồng. Qua kiểm tra, tổng công ty đã thu 39.502.042.264 đồng. Như vậy chênh lệch 7.416.546.882 đồng là do Tổng công ty có các quyết định điều động vốn Nhà nước từ các công ty này để tăng thêm nguồn vốn kinh doanh của văn phòng Tổng công ty, không coi số tiền này là một phần vốn Nhà nước được bán khi cổ phần hóa. Trong đó, Công ty cổ phần (CTCP) thủy sản số 4 (1,8 tỷ đồng), CTCP Thủy sản Minh Hải (3.616.546.882 đồng), CTCP thủy đặc sản (hai tỷ đồng). Do đó phần vốn Nhà nước thực tế của các CTCP đã chuyển về Tổng công ty là 39.502.042.264 đồng. Tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa là 42.934.855.001 đồng, bao gồm giá trị tài sản cố định không sử dụng, nợ phải thu khó đòi, vật tư, hàng hóa chậm luân chuyển... do Tổng công ty quản lý. Tính đến ngày 31-12-2003, Tổng công ty đã xử lý được 10.341.691.128 đồng (bao gồm cả tài sản điều động về Tổng công ty). Trong đó số tiền thực tế thu được đã chuyển về Tổng công ty 3.868.459.856 đồng. Như vậy, tính đến ngày 31-12-2003 số tiền Tổng công ty đã thu từ việc cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên là 43.370.502.120 đồng, bao gồm 39.370.502.120 đồng, thu từ các công ty cổ phần, 3.868.459.856 đồng là số tiền xử lý tài sản không đưa vào cổ phần hóa. Theo quy định, số tiền nêu trên phải nộp về quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp. Tính đến ngày 31-12-2003, Tổng công ty mới nộp tám tỷ đồng trên tổng số 43.370.502.120 đồng. Số tiền chưa nộp về quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp là 35.370.502.120 đồng, Tổng công ty đã sử dụng: đầu tư xây dựng Trung tâm chế biến thủy sản tại khu công nghiệp Sóng Thần II là 15.833.769.936 đồng; hạch toán tăng nguồn vốn kinh doanh của Văn phòng Tổng công ty 5,8 tỷ đồng; để lại quỹ tập trung của văn phòng Tổng công ty 13.763.732.184 đồng. Theo kết luận của Ðoàn Thanh tra Nhà nước, việc làm này không đúng quy định. Trách nhiệm thuộc về các ông Phạm Mạnh Hoạt, quyền chủ tịch HÐQT, Nguyễn Ðình Phương, Tổng giám đốc và ông Nguyễn Duy Dũng, Trưởng ban tài chính - kế toán tổng công ty. Vẫn còn ý kiến khác nhau giữa kết luận thanh tra và Hội đồng quản trị Tổng công ty Thủy sản Việt Nam, về vấn đề này. Cụ thể là, về số tiền thực thu từ bán phần vốn Nhà nước: Căn cứ vào điều 3 mục 1 Quy chế quản lý sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ban hành theo quy định số 95/2000/QÐ-BTC ngày 9-6-2000 của Bộ Tài chính, số tiền thực thu từ bán phần vốn Nhà nước tại sáu đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty là 21.232.574.811 đồng. Riêng Công ty xuất nhập khẩu thủy đặc sản mới chuyển một phần số tiền thực thu từ bán phần vốn Nhà nước là tám tỷ đồng. Theo phương án cổ phần hóa ba đơn vị là Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Minh Hải, Công ty xuất nhập khẩu thủy đặc sản, Công ty xuất nhập khẩu và chế biến đông lạnh 4, tiền bán phần vốn Nhà nước được giữ lại để đầu tư cho Trung tâm chế biến thủy sản xuất khẩu đã được Bộ Thủy sản phê duyệt tại Quyết định 958/1999/QÐ-BTS ngày 23-12-1999. Nhưng đến thời điểm 31-12-2003, Tổng công ty mới đầu tư cho Trung tâm chế biến thủy sản xuất khẩu số tiền 16.201.301.068 đồng (chủ yếu là tiền thuê đất), chi trả trợ cấp cho người lao động thôi việc tại công ty cổ phần 233.111.863 đồng, chuyển về quỹ sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 8.100.000.000 đồng. Như vậy, số tiền thực thu từ bán phần vốn Nhà nước phải nộp về quỹ sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước là 4.708.161.880 đồng.

Số tiền trên, Tổng công ty đã chuyển về quỹ sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước T.Ư trong tháng 6-2004. Ðồng thời Tổng công ty đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính có Quyết định giảm vốn cho Tổng công ty là 12.808.161.880 đồng vì số tiền này nằm trong số vốn Nhà nước đã giao cho Tổng công ty khi thành lập.

Về phần vốn Nhà nước tăng thêm từ khi xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm chuyển sang công ty cổ phần: Căn cứ thông tư 104/1998/TT-BTC ngày 18-7-1998 và hướng dẫn tại văn bản số 3138/TC/TCDN ngày 19-8-1998 (mục 5b và 6) của Bộ Tài chính thì phần vốn Nhà nước tăng so với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp tại tám đơn vị thành viên tổng công ty là 9.427.445.531 đồng, được nộp vào tài khoản thu về cổ phần hóa của Tổng công ty. Mặt khác đã có quyết định điều động vốn Nhà nước tăng thêm khi các doanh nghiệp này chưa chính thức chuyển thành công ty cổ phần là phù hợp với văn bản 784/TC/TCDN ngày 11-8-2001 của Bộ Tài chính. Số tiền này tổng công ty đã hạch toán tăng nguồn vốn và bổ sung nguồn vốn lưu động cho Tổng công ty.

Một số kết quả trong sản xuất và kinh doanh

Tổng công ty thủy sản Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức theo mô hình Tổng công ty 90 trực thuộc Bộ Thủy sản. Tính đến năm 2003, Tổng công ty có 17 đơn vị thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ và văn phòng tổng công ty. 14 trên tổng số 18 đơn vị (kể cả văn phòng) thuộc nhóm các đơn vị hoạt động bình thường. Số còn lại là công ty nuôi trồng thủy sản, công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu Seaprodex, công ty thủy sản khu vực II, công ty cung ứng vật tư và nuôi tôm xuất khẩu thuộc diện phá sản. Ðến hết năm 2003, 9/17 đơn vị thành viên đã cổ phần hóa với tổng giá trị tài sản cổ phần hóa hơn 112.517.000.000 đồng. Ngày 1-5-1995, Bộ Tài chính giao vốn cho Tổng công ty với tổng số 374.634.000.000 đồng vốn.

Trong đó, vốn ngân sách cấp hơn 105.061.000.000 đồng, chiếm 28%; vốn tự bổ sung hơn 254 tỷ đồng, chiếm 67,8%; vốn từ nguồn khác hơn 15,5 tỷ đồng chiếm 4,2% so tổng số vốn được giao. Ngay từ lúc nhận vốn, tình hình tài chính của nhiều đơn vị thành viên không được lành mạnh. Trong hoàn cảnh vừa phải gồng mình gánh các khoản nợ phải thu khó đòi, nợ phải trả đến hạn không có khả năng thanh toán, nợ luỹ kế, hàng hóa tồn đọng kém phẩm chất với tổng số tiền rất lớn; cơ sở vật chất kỹ thuật (chủ yếu nhà xưởng đã xuống cấp), lại phải lo sản xuất, kinh doanh trong điều kiện thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, Tổng công ty đã có cố gắng tháo gỡ dần khó khăn, phát triển sản xuất, kinh doanh. Từ năm 1996 đến năm 2003, Tổng công ty đã đầu tư 396,6 tỷ đồng, riêng 5 năm (1999-2003) 361,2 tỷ đồng. Trong đó đầu tư công nghiệp chế biến thủy sản hơn 312 tỷ đồng. Ðến năm 2002, đã có sáu nhà máy chế biến công nghiệp hiện đại. Nhằm gắn chế biến xuất khẩu với vùng nguyên liệu, tổng công ty đã tiếp nhận xí nghiệp chế biến thủy sản Xuân Thủy tỉnh Nam Ðịnh vào Seaprodex Hà Nội, tiếp nhận xí nghiệp chế biến thủy sản Trà Kha vào Seaprodex Minh Hải; tích cực tiếp thị, mở rộng thị trường, tham gia tổ chức hội chợ quốc tế ở Mỹ, Nhật Bản, thị trường EU và hội chợ trong nước; quảng cáo thương hiệu Seaprodex Việt Nam, thương hiệu Seaprodex của các đơn vị thành viên gắn với sản phẩm cụ thể. Từ năm 1996 đến hết năm 2003, các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như tổng doanh thu đạt 35.282 tỷ đồng, đạt mức bình quân hơn 4.410 tỷ đồng/năm. Trong đó mức doanh thu năm 1996 là 2.686 tỷ đồng, đến năm 2003 tăng lên 6.541 tỷ đồng, tăng 143% so năm 1996 và tăng 2.491 tỷ đồng so mức bình quân tám năm (1996-2003). Cùng thời kỳ này, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 2,46 tỷ USD; xuất khẩu 1,3 tỷ USD, chiếm 52%, nhập khẩu 1,16 tỷ USD, chiếm 48%. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu tăng 34%; tổng giá trị sản xuất chế biến thủy sản tăng 89% so năm 1996. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh thời kỳ 1996-2003: lãi luỹ kế 280,6 tỷ đồng, thế nhưng lỗ luỹ kế cũng tới 155,3 tỷ đồng. Tại thời điểm 31-12-2003, toàn Tổng công ty đã bổ sung thêm 124 tỷ đồng vào nguồn vốn Nhà nước.

Một số kiến nghị

Tại thời điểm thành lập Tổng công ty Thủy sản Việt Nam, một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, các khoản nợ khó đòi, lỗ lũy kế lớn. Từ ngày thành lập cho đến nay, Tổng công ty hoạt động  trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, có sự cạnh tranh gay gắt, đã cố gắng duy trì và ổn định sản xuất kinh doanh, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động. Những năm gần đây, Tổng công ty mất dần vai trò chủ đạo, liên kết các đơn vị thành viên, khiến cho tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản của đơn vị phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, một số đơn vị thành viên chậm đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, cho nên lạc hậu so với nhiều đơn vị chế biến thủy sản ở các tỉnh phía nam. Một số lãnh đạo chủ chốt của Tổng công ty mất đoàn kết, công tác quản lý, điều hành có mặt sa sút, làm giảm lòng tin, sự nhiệt tình công tác của cán bộ, nhân viên.

Tình hình tài chính của nhiều đơn vị thành viên Tổng công ty thủy sản Việt Nam không lành mạnh, chúng tôi kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành chức năng sớm có biện pháp xử lý dứt điểm công nợ, cho phá sản, giải thể một số đơn vị thành viên nợ nần chồng chất, không còn khả năng hoạt động; xử lý những cán bộ có sai phạm thật công bằng và nghiêm minh, để từ đó tạo ra sự đoàn kết, nhất trí, tạo ra sức bật trong sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty. Quan trọng là sắp xếp lại tổ chức, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, theo các mô hình thích hợp, tiên tiến gắn với việc lựa chọn đúng những cán bộ có phẩm chất đạo đức, có năng lực tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh đảm nhiệm các chức vụ chủ chốt. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp năng động sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật. Ðồng thời, đầu tư các thiết bị chế biến thủy sản hiện đại để nâng cao chất lượng các mặt hàng thủy sản; làm tốt việc xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Giữ vững và phát triển thương hiệu Seaprodex với uy tín và chất lượng từng được người tiêu dùng trong và ngoài nước ghi nhận.

ĐÀO NGỌC DŨNG, TỐNG THẾ GIA,
HOÀNG HIỂN
THIÊN ANH       
(Còn nữa)                  

Có thể bạn quan tâm