Có nhiều yêu cầu về trau dồi kiến thức cơ bản. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số yêu cầu chủ yếu nhất.
1. Yêu cầu về tư duy lô-gích: Ðây là yêu cầu quan trọng nhất, nó chi phối mọi yêu cầu khác trong sáng tác, lý luận và dịch thuật văn học. Tư duy lô-gích sẽ giúp ta có khả năng tự phản biện để xem xét lại mọi lập luận và phát ngôn của mình. Hiện nay, tình trạng thiếu tư duy lô-gích thể hiện rõ nhất ở hiện tượng bắt chước nước ngoài đang diễn ra một cách trầm trọng. Nó có nguy cơ làm thui chột khả năng phản biện của tư duy khoa học. Nó liên quan rõ ràng nhất đến hiện tượng lạm dụng tiếng Anh.
Hiện tượng lạm dụng phiến diện việc sử dụng tiếng Anh trong lý luận phê bình, sáng tác và dịch thuật văn học, đã đến mức làm ta có cảm giác như các tác giả đang rơi vào vòng lệ thuộc của tiếng Anh. Có tác giả, khi viết lý luận phê bình liên quan các lý thuyết và văn học nước ngoài, thường "chua" mọi tác phẩm và thuật ngữ bằng tiếng Anh, cứ như thể tiếng Anh là chìa khóa để giải quyết mọi vấn đề. Thế là người ta "chua" tiếng Anh cho tất cả các tác giả và tác phẩm thuộc đủ các thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Người ta nói Tolstoi viết War and Peace chứ không phải là Voina i mir [tiếng Nga: "Chiến tranh và hòa bình"], rằng Ostrovski viết How the Steel Was Tempered chứ không nói Kak zakaljalas’ stal’ ["Thép đã tôi thế đấy"]... Sự lệ thuộc vào tiếng Anh diễn ra kỳ cục đến nỗi trong một bài dịch từ tiếng Anh đối với một bài viết về văn học Nga và Ðông Âu, một người dịch đã dịch toàn văn bài viết nhưng lại chừa lại tên các tác phẩm bằng tiếng Anh mà không dịch, làm cho người đọc có quyền hiểu rằng các tác phẩm đó đã được viết bằng tiếng Anh. Tất nhiên, dùng tiếng Anh để giải nghĩa thêm cho các thuật ngữ và khái niệm là một việc làm cần thiết, nhưng nếu dùng tiếng Anh để thay cho nguyên tác thì vô hình trung đã coi tất cả các tác giả trên thế giới là những người nói tiếng Anh! Ðiều này tưởng như vô hại, nhưng thực tế nhiều khi dẫn đến những suy diễn rất sai lầm và ngớ ngẩn.
2. Yêu cầu về vốn kiến thức văn hóa: Ðây cũng là một trong những yêu cầu cơ bản của tư duy sáng tác và lý luận phê bình. Vốn kiến thức văn hóa sẽ làm thành một phông cơ sở để từ đó chúng ta có thể xác định được vị trí của đối tượng sáng tác và phê bình, cũng như để bảo đảm giá trị lịch sử cho những lập luận của mình. Vốn văn hóa nói đến ở đây bao gồm cả văn hóa dân tộc nước nhà lẫn văn hóa thế giới. Vốn kiến thức văn hóa sẽ giúp chúng ta hiểu sâu và hiểu đúng đối tượng cũng như xử lý được những mối quan hệ giữa đối tượng với các phương tiện diễn đạt nghệ thuật và với hệ thống các khái niệm. Việc nắm vững vốn văn hóa thế giới sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn cảnh và có hệ thống, tránh được quan điểm phiến diện và áp đặt chủ quan. Yêu cầu về vốn kiến thức văn hóa sẽ liên quan chặt chẽ đến yêu cầu về nhận thức lý luận nói chung và nhận thức các lý thuyết văn học nói riêng một cách có hệ thống.
3. Yêu cầu về nhận thức các lý thuyết và các quan điểm một cách có hệ thống: Các lý thuyết và quan điểm văn học ra đời giống như một quá trình phủ định biện chứng. Lý thuyết sau ra đời không bao giờ phủ định sạch trơn lý thuyết trước, mà nó luôn kế thừa và tiếp thu để làm mới cho mình. Vì thế việc nhận thức một lý thuyết không thể được tiến hành một cách biệt lập và nhất là không được tuyệt đối hóa nó. Thế nhưng nhiều bạn trẻ viết lý luận phê bình và dịch thuật văn học bây giờ thường nóng vội không chịu tìm hiểu một cách có hệ thống các lý thuyết văn học, vì thế thường bỏ qua cái gốc và chỉ đốn cái ngọn, cho nên nhiều khi họ đã tuyệt đối hóa một lý thuyết hay một ý kiến nào đó mà không tính đến tính hạn chế lịch sử của nó, nghiễm nhiên biến nó thành tiêu chuẩn để đánh giá các phát ngôn của người khác. (Tất nhiên nói cho công bằng thì có cả những người viết không còn trẻ nữa cũng mắc phải lỗi này).
Chẳng hạn có người khi đọc được một ý kiến của một người nước ngoài nói rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có những quan điểm gần với chủ nghĩa Mác, thế là lấy ngay nó làm tiêu chuẩn để tán dương chủ nghĩa hậu hiện đại, thậm chí có người còn nói "chủ nghĩa hậu hiện đại chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa Mác !". Họ không hề biết rằng quan điểm của chủ soái hậu hiện đại (Francois Lyotard) là chống lại chủ nghĩa Mác, coi chủ nghĩa Mác là một trong những "đại tự sự" cần phải xóa bỏ. Hay như vừa mới đây, có một bạn trẻ khác khi đọc được một ý kiến của một người nước ngoài nào đó nói về bản sắc dân tộc trong văn hóa, đã hồn nhiên dùng nó làm căn cứ để phê phán định nghĩa về bản sắc dân tộc của một tác giả khác trong nước. Người viết đó đã không hiểu một điều là trên thế giới có tới hàng trăm định nghĩa về văn hóa, và cũng có thể có chừng ấy định nghĩa về bản sắc dân tộc. Vậy tại sao lại lấy một định nghĩa của một người bất kỳ để phán xét đúng sai cho các định nghĩa khác? Theo lô-gích, người khác cũng có thể làm ngược lại, tức là lấy cái định nghĩa về bản sắc dân tộc của chính tác giả trong nước bị người kia đem ra phê phán để làm tiêu chuẩn phán xét định nghĩa của người nước ngoài được người kia lấy làm tiêu chuẩn phán xét. Ðây không phải là một cách làm khoa học.
Tóm lại, việc nắm vững những yêu cầu trên đây sẽ giúp ta tránh được các căn bệnh sau:
1. Xuất phát từ tư duy lô-gích, với vốn kiến thức văn hóa và nhận thức hệ thống, chúng ta sẽ tránh được kiểu lý luận phê bình "chụp giật". Cách lý luận "chụp giật" là vớ được cái gì dùng cái đó, miễn là cái đó là "đồ ngoại", mà không cần biết giá trị khoa học của nó là thế nào và cũng không cần biết nó nằm trong hệ thống nào. Không có nhận thức hệ thống thì rút cục chỉ làm được lý luận phê bình theo kiểu "thầy bói xem voi !".
2. Tránh được sự lệ thuộc vào một lý thuyết: Sự lệ thuộc vào một lý thuyết sẽ dẫn đến tư duy định kiến. Tư duy định kiến sẽ dẫn đến gò ép lý thuyết của người khác để phán xét theo chủ quan của mình, thậm chí dẫn đến hiểu sai hoàn toàn quan điểm của đối tượng. Chẳng hạn có một bạn viết trẻ khi viết về Roland Barthes, với định kiến trong đầu về phê bình huyền thoại, đã biến quan điểm của Barthes về "thần bí hóa" và "giải ngộ", được người đó dẫn thuật ngữ tiếng Pháp là "mystification" và "démystification" để minh họa, thành lý thuyết về "huyền thoại hóa" và "giải huyền thoại hóa". Thực tế, "huyền thoại hóa" và "giải huyền thoại hóa" trong tiếng Pháp phải là "mythification" và "démythification". Tác giả biết điều này, bằng chứng là tác giả viết rằng dịch sát từ "mystification" là "thần bí hóa". Tuy nhiên, do bị chi phối bởi định kiến về huyền thoại học và huyền thoại hóa, nên tác giả đã cố ép nghĩa "huyền thoại hóa" cho thuật ngữ "thần bí hóa". Thực tế, đây là hai cặp thuật ngữ hoàn toàn khác nhau, không liên quan gì với nhau cả về ngữ nghĩa lẫn mặt chữ. Việc cưỡng ép ngữ nghĩa cho các thuật ngữ khoa học như thế đã làm sai lạc hoàn toàn công cuộc nhận thức lý thuyết. Chỉ một thao tác nhỏ mang tính định kiến thế thôi cũng đủ làm cho người đọc không dám tin vào những gì tác giả viết ra về Roland Barthes.
3. Tránh được sự lệ thuộc vào ngoại ngữ: Sự lệ thuộc vào ngoại ngữ, đặc biệt là vào tiếng Anh, đang diễn ra một cách tệ hại. Tôi khẳng định rằng biết ngoại ngữ là một điều vô cùng ích lợi và rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, việc lạm dụng ngoại ngữ lại là một nguy cơ gây tác hại cho tiếng bản địa. Trong thời đại thông tin ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng cũng góp phần đắc lực gây nên tình trạng này. Ðây cũng là một biểu hiện của căn bệnh thiếu tư duy lô-gích và căn bệnh sùng ngoại.
Ngôn ngữ luôn biến đổi để tự làm giàu và hoàn thiện, đó là một quy luật. Và sự tiếp thu ngôn ngữ nước ngoài là một trong những tác nhân tích cực dẫn đến sự biến đổi đó. Tuy nhiên, sự lạm dụng thái quá sẽ có tác động cản trở sự phát triển ngôn ngữ, thậm chí phá hủy. Những nguyên tắc và quy tắc diễn đạt cơ bản của tiếng Việt là những thứ không thể phá bỏ. Chúng có liên quan đến bản sắc văn hóa của dân tộc. Tiếng Việt sẽ không bao giờ chấp nhận cách đọc ngược mà nhiều người ngày nay đang làm như là một mốt học đòi theo tiếng Anh (thí dụ: đồng tiền Việt Nam được đọc theo kiểu Anh là Việt Nam đồng, trong khi tất cả các đồng ngoại tệ khác thì lại luôn được đọc theo văn phạm tiếng Việt: đô-la Mỹ, bảng Anh, mác Ðức, yên Nhật...). Tiếng Việt cũng sẽ không bao giờ chấp nhận những lối diễn đạt của tiếng nước ngoài như "nằm trên lưng", "nằm trên bụng" thay cho "nằm ngửa", "nằm sấp"; không chấp nhận nói "lấy tay ra" thay cho "bỏ tay ra"; "đi vào phố" thay cho "đi ra phố"... Tiếc thay, những sự "tàn phá ngôn ngữ" đó đang được nhiều nhà lý luận và dịch giả vô tình tiếp tay. Ðó chính là hệ quả của căn bệnh lệ thuộc vào ngoại ngữ.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm mà tôi muốn trao đổi với các bạn trẻ viết văn. Những thí dụ được nêu chỉ là một số ít trong muôn vàn hiện tượng có thật hiện đang diễn ra tràn lan trên sách báo và mạng in-tơ-nét. Có những sự thật làm ta tự hào, nhưng vẫn còn những sự thật làm ta băn khoăn, day dứt. Tôi xin được chia sẻ nỗi day dứt của tôi với các bạn.