Trăn trở từ làng nghề truyền thống

Rèn sắt, đúc lư đồng là những nghề thủ công truyền thống mà người lao động luôn phải làm việc trong cái nóng hầm hập. Giữa không khí oi bức chốn thành thị, không phải ai cũng còn đủ kiên nhẫn để theo đuổi. Thế nhưng, nhiều năm qua, làng đúc lư đồng An Hội (quận Gò Vấp) và lò rèn Mười Châu (quận 10) vẫn còn những lò đúc luôn đỏ lửa bằng sự thủy chung với nghề.

Thợ thủ công làng nghề An Hội tạo khuôn để đúc lư đồng.
Thợ thủ công làng nghề An Hội tạo khuôn để đúc lư đồng.

Nghề đúc lư đồng ở An Hội (Gò Vấp) là một trong số ít làng nghề nổi tiếng hiện còn tồn tại ở TP Hồ Chí Minh. Sản phẩm lư đồng ở đây đa dạng mẫu mã, được khách hàng cả trong và ngoài nước ưa chuộng. Trước năm 1975, làng nghề có đến 60 lò đúc lư với hàng trăm nghệ nhân làm việc, nhưng hiện tại, cả làng nghề chỉ còn năm lò đỏ lửa. Ðể cho ra lò một bộ lư đồng hoàn chỉnh phải trải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi ở người thợ sự tỉ mỉ, cẩn thận. Mỗi thợ thường chuyên làm một công đoạn, tất cả đều xử lý thủ công, từ việc đắp khuôn, đúc đồng đến chạm khắc họa tiết, hoa văn. Có lẽ nhờ sự tâm huyết, óc sáng tạo cùng sự khéo léo của những nghệ nhân mà lư đồng An Hội vang danh một thời.

Nổi tiếng là thế, nhưng làng nghề đúc lư đồng An Hội đang đứng trước nguy cơ mai một. Ông Trần Văn Thắng, chủ lò đúc lư đồng Hai Thắng chia sẻ: "Sau năm 1975, các chủ lò dần bỏ nghề do thiếu vốn. Làm lư đồng rất khó khăn, nguyên liệu chính chủ yếu từ phế liệu, sản phẩm bán ít chạy, lỗ vốn, các chủ lò đành bán đất, kiếm nghề khác để mưu sinh".

Hiện tại, lò lư đồng Hai Thắng có khoảng 10 thợ đang làm việc, phần lớn ở độ tuổi trung niên. Chị Nguyễn Thị Ngọc, một thợ đang làm việc tại lò lư đồng Hai Thắng tâm sự: "Giới trẻ ngày nay không có ý định học nghề này. Vừa cực, vừa nóng lại phải ngồi suốt từ sáng đến tối với đất, với đồng, chẳng còn người trẻ nào theo nghề này nữa". Chị Ngọc cho biết thêm, chị là "con nhà tông", ngày trước nhà chị cũng mở lò đúc lư, nhưng thiếu vốn mà bỏ lò. Tuy vậy, chị với em trai vẫn nhớ nghề mà đi làm cho những lò lư khác. Mẹ với anh trai của chị Ngọc cũng mở tiệm bán lư đồng cho thỏa nỗi nhớ nghề truyền thống của gia đình.

Cùng cảnh với làng đúc lư đồng An Hội, lò rèn Mười Châu, một trong những lò rèn hiếm hoi còn lại của thành phố, cũng đang chật vật để tồn tại. Nằm sâu trong một con hẻm nhỏ bên hông chợ Nhật Tảo (quận 10), tiếng là lò nhưng thật ra chỉ là một không gian nhỏ trước hiên nhà được tận dụng làm chỗ đốt lò rèn sắt vì chủ lò không đủ khả năng tìm mặt bằng khác. Ông Lê Văn Châu (66 tuổi) và bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt (57 tuổi) là cặp vợ chồng duy nhất ở khu vực này ngày ngày vẫn thủy chung với nghề rèn sắt.

Ông Châu theo học nghề từ năm 1980, đến năm 1982 thì ra nghề, mở lò đến nay cũng đã 36 năm. Cùng thời ông cũng có nhiều thanh niên theo nghề nhưng bỏ giữa chừng vì quá vất vả. Khi được hỏi tại sao không lựa chọn nghề khác nhẹ nhàng hơn, ông Châu chỉ cười: "Cũng trầy trật, vất vả đấy nhưng không bỏ nghề được, càng làm càng say mê". Còn bà Nguyệt theo học nghề rèn từ ông Châu. Ban đầu, bà chỉ phụ đập búa, sửa đục, mài kéo... sau đó làm những khâu khó hơn. "Lúc trước khách đặt hàng rất nhiều, thu nhập cũng tương đối ổn định. Có ngày hai vợ chồng phải tranh thủ dậy làm từ sớm để kịp giao hàng cho khách. Mấy năm gần đây quá ế ẩm, có khi cả tuần không có gì làm, cuộc sống vì thế mà khó khăn hơn", bà Nguyệt cho hay.

Với ông Châu, nghề rèn có lẽ đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của ông. Ông tâm sự: "Nghề nặng nhọc quá, giới trẻ không muốn theo. Giờ tụi nhỏ chỉ thích ngồi máy lạnh, vừa mát, vừa sạch sẽ, thu nhập lại ổn định. Cứ đà này chắc không lâu nữa nghề rèn thủ công sẽ bị "tuyệt chủng". Cũng may là hiện nay có nhiều người tìm lại các sản phẩm thủ công, cho nên thợ rèn như tôi cũng còn có việc làm, thu nhập".

Cùng tâm trạng với ông Châu, ông Hai Thắng chia sẻ: "Thực ra năm lò đúc lư đồng tồn tại được là do tôi đi vận động chứ mọi người cũng không mặn mà lắm với nghề. Tôi cũng có nhận đào tạo thợ, không những dạy miễn phí mà còn trả thêm tiền, vậy mà ít ai chịu học. Giờ người ta cũng khó khăn, chọn đi làm công nhân mỗi tháng cũng đủ sống, mấy ai chịu bỏ ra ba năm chỉ để học nghề". Ông Hai Thắng cho biết thêm, nghề đúc lư đồng không thể ép người ta theo được, làm thủ công phải có năng khiếu, tỉ mỉ và chịu khó. Ngay trong gia đình, ông cũng không ép buộc "định hướng" cho các con theo nghề, hiện chỉ có người con trai út và con gái thứ ba là còn theo nghề truyền thống của gia tộc.

Làng nghề truyền thống không chỉ đơn thuần mang giá trị về kinh tế, mà đó còn là một nét đẹp văn hóa của ông bà từ xa xưa. Nét văn hóa ấy cần được chính quyền địa phương quan tâm, có các chính sách hỗ trợ thiết thực để các làng nghề có thể tiếp tục tồn tại, phát triển.

Có thể bạn quan tâm