Từ nội thành Quy Nhơn chúng tôi chạy xe máy dọc theo con đê khu Ðông, hướng về phường Nhơn Bình, tìm lớp học tình thương của thầy Nguyên. Tuy gọi là phường nhưng càng đi sâu vào chỉ thấy toàn là làng mạc, sông nước, các ao đìa nuôi tôm nối tiếp nhau xen lẫn những vùng dân cư nghèo thưa thớt dọc con sông Hà Thanh...
Lớp tình thương của thầy Lê Sĩ Nguyên có hai địa điểm. Căn nhà xây cấp 4C xiêu vẹo, nằm trước sân vườn, rộng ước chừng bao mươi mấy mét vuông. Thầy nói mùa hè trời nóng nên cho các em học ở ngoài vườn, đến mùa đông lại dời vào nhà trong. Căn nhà ngang phía trong cũng là một lớp học. Ðiều khác thường so với các lớp học tình thương khác ở Bình Ðịnh chính là nó được xây dựng bằng số vốn trị giá 8 chỉ vàng mà hai vợ chồng thầy dành dụm được, dự phòng lúc ốm đau, bệnh tật và dưỡng già, khi bảy đứa con gái của thầy đều đã lần lượt theo chồng.
Thầy Nguyên cho biết, năm nay thầy đã 71 tuổi. Cụ thân sinh của thầy Nguyên là thầy giáo Lê Quang, còn có tục danh là "Hương Lễ Thương". Giải thích tục danh kỳ lạ này, thầy hiệu trưởng Trường tiểu học Nhơn Bình 2 và một số thầy giáo lão thành trong xã giải thích rất thú vị: Hương Lễ là một chức sắc của làng quê thời Pháp thuộc, còn chữ "Thương" là do người dân trong vùng đặt cho ông. Thầy Hương Lễ Thương có bản tính hay thương người, nhất là đối với lũ trẻ thơ thất học trong làng.
Chúng tôi đến nhà một người học trò cũ của thầy Hương Lễ Thương, đó là cụ Nguyễn Xuân Ðào, nguyên là cán bộ tập kết nghỉ hưu từ miền Bắc trở về sau ngày giải phóng. Năm nay cụ Ðào đã 86 tuổi, nhưng trí nhớ vẫn còn minh mẫn lắm, cụ nhớ lại, hồi ấy cả vùng Bắc An Ðịnh (phường Nhơn Bình hiện nay) chỉ có một lớp học duy nhất. Cụ Ðào học chữ với thầy Hương Lễ Thương lúc khoảng 15 tuổi, cũng tại địa điểm là lớp học tình thương của thầy Nguyên đang dạy hiện nay. Thầy Hương Lễ rất thương học trò, nhưng cũng rất nghiêm khắc, thầy dạy cùng lúc cả chữ quốc ngữ và chữ Nho. Cụ Ðào vẫn còn nhớ như in bài thơ "Kiểng nhắn bồ" của thầy Hương Lễ làm từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đọc cho chúng tôi nghe. "Bồ" là một vật dụng đựng lúa của nông dân, được dân làng đặt trên núi làm ám hiệu, khi bồ kéo lên là báo tin giặc Pháp đang đi càn gần làng, lúc ấy "kiểng" trong làng sẽ được đánh vang để báo động cho người dân sơ tán, tìm chỗ ẩn nấp. Cụ Ðào cho biết hiện vẫn còn lưu giữ bài thơ cùng bút tích của thầy Hương Lễ Thương. Một điều đặc biệt là cả hai thầy giáo của hai thế hệ cha, con thầy Nguyên đều viết chữ rất đẹp.
Cụ Lê Quang mất năm 1978, thọ 78 tuổi, lúc ấy anh giáo làng 24 tuổi, con trai cụ là thầy Lê Sĩ Nguyên mới chính thức nối nghiệp cha. Thế mà nay thầy Nguyên cũng đã ở tuổi "thất thập cổ lai hy", và gần 50 năm dạy lớp học vỡ lòng cho làng quê nghèo ven thành phố Quy Nhơn này.
Năm 1995, phong trào mở lớp học tình thương được sự quan tâm hỗ trợ của các ngành và chính quyền địa phương, thầy Lê Sĩ Nguyên cũng bắt đầu có lương. Ðược khuyến khích của các tổ chức, đoàn thể xã hội địa phương, thầy Nguyên càng say mê cống hiến hết mình. Khi nghe tin thầy Nguyên hiến số tiền dành dụm ít ỏi của mình để xây lớp học tình thương cho làng, lại còn dùng đất vườn nhà để dựng phòng học cho các cháu khuyết tật, thiểu năng trí tuệ, nhà nghèo không đến trường được... Thầy Nguyên đem khoe cuốn sổ ghi chép chữ đã ố vàng và xúc động đọc cho chúng tôi nghe những dòng kỷ niệm khó quên ấy. Thầy kể, lớp học tình thương dạy miễn phí cho con em nhà nghèo. Thấy gia đình thầy cũng chẳng dư dả, nhiều phụ huynh là nông dân, ngư dân nghèo, bắt được con tôm, con cá ngon đem biếu, thầy đều không nhận. Thầy nghĩ nếu nhận là coi như bớt đi miếng ăn hằng ngày, bớt đi nguồn thu nhập ít ỏi của bà con. Thà chịu kham khổ một chút mà vui.
Lớp tình thương của thầy Nguyên được áp dụng theo mô hình lớp học "linh động", các em rảnh việc nhà lúc nào thì học lúc đó. Thậm chí đang học nhưng thấy nước sông xuống là các em lại xin phép thầy ra gành mò cua bắt ốc giúp cha mẹ. Do lẽ đó nên lớp học của thầy không năm nào có kỳ nghỉ hè như các trường tiểu học tình thương khác. Khi chúng tôi đến thăm lớp học có khoảng 30 học sinh lớp 1 đến 3, độ tuổi từ 12 - 15. Trong đó 17 em bị thiểu năng trí tuệ. Số em còn lại không đủ điều kiện học ở các trường tiểu học chính quy vì nhà quá nghèo, phải vừa học vừa lao động giúp gia đình. Em nào cố gắng hết lớp 3 thì được thầy cho lên Trường tiểu học Nhơn Bình 2 học chung với các bạn lớp 4. Ngoài những học trò trong làng, còn có nhiều em nhỏ từ các xã, huyện khác như Phước Thuận, Trường Úc (Tuy Phước) muốn tới lớp học phải đi bằng đò. Vì vậy vào những ngày nước sông Hà Thanh dâng cao, thầy Nguyên lại kiêm luôn cả công việc chèo đò đưa lũ học trò nhỏ từ làng bên qua sông đến lớp, sau đó lại chèo đò đưa về để tránh tai nạn đáng tiếc cho các em...
Nghe thầy Nguyên kể về những công việc hằng ngày của mình mà chúng tôi ngỡ như trong câu chuyện cổ tích. Công việc dạy học của thầy cứ lặp đi lặp lại năm này qua năm khác. Tuy vậy điều khác thường của nó chính là những lớp học, những thế hệ học sinh từ đời ông, đời cha, rồi đời con cháu đã tồn tại trên nền đất cũ tại ngôi làng nghèo bên dòng sông Hà Thanh này đã gần 100 năm nay...
NGUYỄN TẤN TUẤN