Tóm tắt tiểu sử Ðồng chí Nguyễn Thanh Bình

Ðồng chí Nguyễn Thanh Bình (tên khai sinh: Nguyễn Văn Huyên; bí danh: Giáo, Bình), sinh ngày 4-5-1920; quê quán: xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Tham gia cách mạng năm 1938, vào Ðảng tháng 5-1939.

Tháng 5-1940 đến tháng 9-1940, đồng chí là Thành ủy viên Thành ủy Hải Phòng; đồng chí bị địch bắt và giam tại Nhà tù Hòa Bình.

Năm 1945, ra tù, đồng chí phụ trách đội du kích, hoạt động ở Bắc Giang, Thái Nguyên; Sau đó được điều về phụ trách lớp huấn luyện cán bộ cấp huyện của hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Sau lớp huấn luyện trên, đồng chí được điều về tham gia Tỉnh ủy Bắc Giang, tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang, trực tiếp phụ trách phong trào ở các huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Ðộng, Hữu Lũng, Lạng Giang. Ðến tháng 8-1945, đồng chí giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời rồi Ủy ban Hành chính tỉnh Bắc Giang.

Tháng 10-1946, đồng chí làm đại diện Ủy ban Hành chính khu Bắc Bộ tại Khu 12, kiêm Ủy viên hành chính trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Khu 12. Ðến tháng 6-1947, đồng chí giữ chức Khu ủy viên Khu 12.

Từ năm 1949 đến năm 1950, đồng chí được Trung ương điều về giữ chức Ủy viên Ban Thanh tra Trung ương, sau đó giữ chức Cục trưởng Cục Quân nhu.

Năm 1951, đồng chí giữ chức Bí thư Ban Chấp hành Ðảng bộ Tổng cục Cung cấp, Cục trưởng Cục Quân nhu; năm 1952, đồng chí là Ủy viên Ðảng ủy Tổng cục Cung cấp.

Từ năm 1954 đến năm 1955, đồng chí giữ chức Cục trưởng Cục Chính trị Tổng cục Hậu cần, sau đó được bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; từ năm 1959 đến năm 1960, đồng chí giữ chức Phó Bí thư Ðảng ủy Tổng cục Hậu cần.

Tháng 9-1960 đến tháng 1-1961, tại Ðại hội toàn quốc lần thứ III của Ðảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Sau đó, đồng chí được điều động làm Phó Ban Tài chính- Thương nghiệp Trung ương, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội thương. Ðến tháng 12-1962, đồng chí giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Từ tháng 9-1966 đến tháng 8-1969, đồng chí giữ các chức vụ: Trưởng Ban Tài chính- Thương nghiệp Trung ương, Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính- Thương nghiệp Phủ Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra của Chính phủ.

Tháng 6-1973 đến tháng 2-1974, đồng chí giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Thủy lợi kiêm Trưởng ban Chỉ huy chống bão lụt Trung ương, kiêm Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Trị thủy và khai thác sông Hồng.

Tháng 12-1976, tại Ðại hội toàn quốc lần thứ IV của Ðảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Ðảng. Ðến cuối năm 1980, đồng chí được cử giữ chức Trưởng ban phân phối lưu thông của Trung ương Ðảng.

Tháng 3-1982, tại Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Trung ương bầu vào Ban Bí thư và phân công phụ trách nông nghiệp.

Tháng 10-1986, đồng chí được Trung ương phân công giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội.

Tháng 12-1986, tại Ðại hội toàn quốc lần thứ VI của Ðảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương  và được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 10-1988 đến tháng 6-1991, đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư và giữ chức Thường trực Ban Bí thư Trung ương Ðảng.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của dân tộc, đồng chí đã được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác.