Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 6,5%/năm

NDO - Một trong những mục tiêu cụ thể của Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030 đặt ra là tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 6,5%/năm .
0:00 / 0:00
0:00
Người lao động tại doanh nghiệp ở Hải Phòng. (Ảnh: Quang Dũng)
Người lao động tại doanh nghiệp ở Hải Phòng. (Ảnh: Quang Dũng)

Ngày 8/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký ban hành Quyết định số 1305/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030.

Mục tiêu tổng quát của Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là Chương trình) là đến năm 2030, năng suất lao động trở thành một động lực quan trọng cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thúc đẩy liên kết vùng; phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các trụ cột chính.

Phấn đấu Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về tốc độ tăng năng suất lao động vào năm 2030.

Chương trình cũng đề ra một số mục tiêu cụ thể.

Thứ nhất, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 6,5%/năm, trong đó; tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5-7,0%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 7,0-7,5%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân khu vực dịch vụ đạt 7,0-7,5%/năm.

Thứ hai, tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 5 thành phố trực thuộc trung ương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động trung bình cả nước trong giai đoạn 2023-2030.

Thứ ba, phấn đấu nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về tốc độ tăng năng suất lao động vào năm 2030.

Thứ tư, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo tăng trung bình 15%/năm đến năm 2025 và tăng trung bình 20%/năm đến năm 2030.

Thứ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30% vào năm 2025 và 35-40% vào năm 2030.

Thứ sáu, tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp đạt dưới 30% vào năm 2020 và dưới 20% vào năm 2030.

Thứ bảy, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 45% GDP vào năm 2025 và đạt khoảng 50% GDP vào năm 2030.

Chương trình cũng đề ra những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.

Trước hết, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, tri thức, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo nền tảng ổn định, bền vững cho tăng năng suất lao động.

Tiếp đó, hoàn thiện khung khổ pháp luật, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cả bên trong và bên ngoài nhằm cải thiện năng suất lao động.

Cùng với đó, thúc đẩy mạnh mẽ các sáng kiến tăng năng suất lao động.

Thêm vào đó, thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, phát triển mạnh mẽ nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Song song với đó, thúc đẩy cơ cấu lại không gian kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành.

Kinh phí thực hiện Chương trình được bảo đảm từ các nguồn gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, tài trợ quốc tế và nguồn huy động hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.