Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch

Sáng 17/11, Báo Nhân Dân phối hợp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Triển khai giải pháp hỗ trợ và ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch”.

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch

Trong năm 2021, thị trường lao động nước ta phải đối mặt với những tác động tiêu cực khi số người có việc làm giảm sâu, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng cao. Đồng thời, thu nhập bình quân tháng của người lao động sụt giảm nghiêm trọng so quý trước và cùng kỳ do những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 từ đầu năm đến nay.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đến hết quý III, cả nước có 28,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm. Đợt dịch Covid-19 lần thứ tư diễn biến phức tạp, lây lan nhanh và kéo dài đã làm tăng tỷ lệ và số người thiếu việc làm trong độ tuổi ở quý III lên mức cao nhất trong vòng 10 năm qua.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách kịp thời nhằm ứng phó với dịch bệnh, phát triển kinh tế gắn liền với với bảo đảm an sinh xã hội.

Với mong muốn góp phần đưa các chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, Báo Nhân Dân phối hợp Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức chương trình tọa đàm trực tuyến mang chủ đề “Triển khai giải pháp hỗ trợ và ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch”. Qua đó, nhằm ghi nhận những ý kiến đóng góp thẳng thắn, những kinh nghiệm thực tiễn từ đại diện người lao động, người sử dụng lao động, các nhà quản lý, chuyên gia để làm rõ hơn ý nghĩa, nội dung, cũng như lộ trình, bước đi trong việc triển khai các giải pháp hỗ trợ và ổn định thị trường lao động sau đại dịch.

Chương trình có sự tham gia của đại diện các cơ quan như: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, nhiều chuyên gia, nhà khoa học, cũng như các doanh nghiệp.

Ngay từ bây giờ, bạn đọc quan tâm có thể gửi câu hỏi tới email nhandandientu@nhandan.vn, hoặc qua Fanpage của Báo Nhân Dân https://facebook.com/nhandandientutiengviet/.

09:35

Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Lê Quốc Minh phát biểu khai mạc tọa đàm

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Thưa các quý vị khách mời và quý bạn đọc thân mến,
Thưa các đồng chí và đồng nghiệp,

Đại dịch Covid-19 đã và đang khiến thị trường lao động nước ta phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên mức rất cao, cung - cầu lao động mất cân bằng ở hầu hết các địa bàn, ngành nghề; đồng thời thu nhập bình quân tháng của người lao động sụt giảm mạnh so với trước đại dịch.

Đến hết quý III, cả nước có 28,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm. Giãn cách xã hội kéo dài đã làm trầm trọng hơn các điểm yếu của thị trường lao động và ảnh hưởng mạnh đến ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Số lao động trong 2 ngành này đều giảm mạnh chưa từng có trong nhiều năm gần đây. Tỷ lệ và số người thiếu việc làm trong độ tuổi ở quý III lên mức cao nhất trong vòng 10 năm qua.

Năm 2021, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm ứng phó với dịch bệnh, phát triển kinh tế đi đôi với chăm lo phúc lợi, an sinh xã hội.

Ngày 25/6, Bộ Chính trị đã họp cho ý kiến về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư hoan nghênh, đánh giá cao sự chủ động, tích cực của các bộ, ngành Trung ương và địa phương trong việc triển khai chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Việc triển khai các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ngay từ khi dịch mới bắt đầu bùng phát trong năm 2020 có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, góp phần hỗ trợ người dân, chia sẻ khó khăn với cộng đồng doanh nghiệp, nhờ đó hạn chế những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, góp phần phục hồi sản xuất, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân, tiếp tục nâng cao niềm tin trong nhân dân về các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

Bộ Chính trị cũng đồng ý chủ trương tiếp tục ban hành chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, trên cơ sở bám sát tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 07-KL/TW ngày 11/6/2021 về một số nhiệm vụ trọng tâm tăng cường công tác phòng, chống dịch Covid-19 và phát triển kinh tế-xã hội; rút kinh nghiệm từ việc thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP của Chính phủ và các biện pháp hỗ trợ của các nước để tập trung rà soát, xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ một cách cụ thể, xây dựng định mức hỗ trợ phù hợp, bảo đảm chặt chẽ, công bằng, công khai, minh bạch, hiệu quả, thiết thực.

Trên tinh thần khẩn trương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19.

Trước đó, được sự đồng ý về chủ trương của Bộ Chính trị và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Những chính sách ban hành nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động, nhất là các đối tượng bị ảnh hưởng, tác động bởi đại dịch, bao gồm cả người dân, người lao động có giao kết hợp đồng lao động và không có giao kết hợp đồng lao động, những đối tượng yếu thế, phụ nữ mang thai, trẻ em mồ côi cha, mẹ vì đại dịch,... cũng như những ngành, nghề bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch như vận tải, hàng không, dịch vụ lưu trú, du lịch,... trên tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau.

Thưa các quý vị,
Với mong muốn góp phần đưa nhanh các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vào cuộc sống một cách dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, hôm nay, Báo Nhân Dân phối hợp Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức chương trình tọa đàm trực tuyến để lắng nghe những ý kiến đóng góp thẳng thắn, thiết thực, những kinh nghiệm thực tiễn quý báu ở trong nước và quốc tế từ đại diện người lao động, người sử dụng lao động, các nhà quản lý, chuyên gia để làm rõ hơn ý nghĩa, nội dung, cũng như lộ trình, bước đi trong việc triển khai các giải pháp hỗ trợ và ổn định thị trường lao động sau đại dịch.

Một lần nữa, tôi xin cảm ơn các vị khách mời đã tham gia buổi tọa đàm trực tuyến hôm nay.

Xin chúc quý vị sức khỏe và chúc buổi tọa đàm thành công tốt đẹp!

09:39

Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội

Thưa ông, đến thời điểm này, ông đánh giá như thế nào về tác động của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao động trong nước? Xin ông có thể chia sẻ một số kết quả của các chính sách hỗ trợ lao động, doanh nghiệp trong đại dịch Covid-19 trong năm 2021? Nhất là kết quả từ các gói hỗ trợ của Nghị quyết 68, Nghị quyết 116?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội:

Tôi rất vui mừng được tham gia tọa đàm ngày hôm nay. Trước tiên, về một số tác động của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao động Việt Nam, tôi xin được chia sẻ mấy nội dung:

Từ đầu năm 2021, Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến hàng chục triệu lao động. Trong quý III, người lao động bị tác động nhiều nhất với 4,7 triệu lao động bị mất việc làm, 14,7 triệu lao động tạm nghỉ hoặc tạm ngừng sản xuất, kinh doanh; trên 10 triệu lao động giảm giờ làm, tạm dừng việc làm. Đặc biệt, vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng rất nặng nề với 4,59% lao động vùng Đông Nam bộ có và 44,7% lao động vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng do ngừng việc, giãn việc, nghỉ việc.

Nguồn cung lao động bị suy giảm. Trong quý 3/2021, lực lượng lao động có 49,1 triệu lượt người, giảm 22 triệu lượt người so với cùng kỳ năm 2020. Lao động việc làm là 47,2 triệu người, giảm 2,7 triệu người so với cùng kỳ năm 2020. Như vậy, năm 2021, số lượng lao động giảm việc làm rất trầm trọng.

Về cơ cấu việc làm và chuyển dịch bị đảo chiều. Trước kia thông thường lĩnh vực nông lâm thủy sản giảm, lĩnh vực dịch vụ công nghiệp tăng nhưng trong đợt này lại đảo chiều. Số lao động trong nông lâm thủy sản 14,5 triệu người tăng lên 479.000 người so với cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm ngành công nghiệp và xây dựng là 15,7 triệu người, giảm 960.000 người so với cùng kỳ năm trước.

Lao động ngành việc làm trong ngành dịch vụ là 17,1 triệu người, giảm 2-3 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Như vậy lĩnh vực dịch vụ giảm rất lớn.

Tiền lương thu nhập giảm, đời sống công nhân lao động gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ lao động thiếu việc làm, thất nghiệp tăng cao. Tỷ lệ thiếu việc làm quý III/2021 là 4,46%, là hơn 1,8 triệu người, tăng 1,86% so với quý trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,98% hơn 1,7 triệu người, tăng hơn 1,25% so với cùng kỳ năm trước.

Về kết quả các chính sách hỗ trợ lao động thất nghiệp, thời gian qua, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và triển khai một số chính sách hỗ trợ người lao động do bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Trong đó, có Nghị quyết 68 của Chính phủ và để triển khai, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 23. Sau quá trình thực hiện có vướng mắc khó khăn, Chính phủ sửa đổi Nghị quyết 126, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 33.

Cùng với đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết 116 về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Để triển khai Nghị quyết ngày, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 28.

Về kết quả thực hiện Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116, tính đến thời điểm này, tổng kinh phí thực hiện 27,24 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho 27,62 triệu lượt đối tượng.

Trong đó có 3 nhóm chính sách chính: Thứ nhất, nhóm bảo hiểm đã hỗ trợ 5,38 nghìn tỷ đồng cho 375.809 đơn vị sử dụng lao động và 11,389 triệu người lao động.

Nhóm thứ 2 là chính sách hỗ trợ bằng tiền, đã hỗ trợ cho hơn 15,64 triệu đối tượng với tổng kinh phí là 21,11 nghìn tỷ động, trên 13,35 triệu người lao động tự do và đối tượng đặc thù khác tại 58 tỉnh, thành phố được hỗ trợ với tổng kinh phí trên 17,14 nghìn tỷ đồng.

Nhóm thứ 3 là nhóm chính sách cho vay vốn đã giải ngân 479,5 tỷ đồng, hỗ trợ cho 1.449 doanh nghiệp để trả lương cho 209.280 lượt người lao động.

Về thực hiện Nghị quyết 116 và Quyết định 28, tính đến nay đã hỗ trợ bằng tiền cho 11,365 triệu lao động với tổng số tiền hỗ trợ là 27,230 tỷ đồng (gói này dự kiến hỗ trợ 30 nghìn tỷ đồng). Giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người sử dụng lao động cơ bản hoàn thành, giảm mức đóng cho hơn 363.600 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng với 9,68 triệu lao động với số tiền tạm tính điều chỉnh giảm đóng là 7.595 tỷ đồng, cơ bản hoàn thành chính sách (Theo Nghị quyết phải hoàn thành trước ngày 31/12/2021).

Hiện còn có một số đối tượng bảo hiểm chưa nắm danh sách thì các đối tượng này sẽ đến trực tiếp cơ quan bảo hiểm xã hội. Hy vọng trong thời gian ngắn nhất, sẽ hoàn thành chính sách hỗ trợ người lao động và sử dụng người lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

09:48

Thưa Thứ trưởng Lê Văn Thanh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang xây dựng dự thảo chương trình hỗ trợ phục hồi thị trường lao động và an sinh xã hội trong một bộ phận cấu thành của Đề án Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Nội dung cụ thể của chương trình tập trung vào các vấn đề gì và tiến độ ra sao? Nguồn kinh phí dành cho chương trình sẽ được huy động như thế nào? Chúng ta cần tận dụng những cơ hội trong thách thức từ đại dịch như thế nào để “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”?

Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh: Trước sự tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao động, nguy cơ thiếu lao động rất lớn. Để phục hồi thị trường lao động, chúng ta cần nhiều giải pháp kịp thời.

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Hiện nay, Bộ đang dự thảo chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động, với 7 nhóm giải pháp lớn với những cơ chế chính sách tập trung vào những vấn đề lớn:

Hỗ trợ trực tiếp người lao động: giúp chi trả chi phí đi lại, nhu yếu phẩm, tiền điện, tiền nước, chi phí xét nghiệm… Hiện nay các doanh nghiệp đi vào sản xuất phải xét nghiệm rất nhiều.

Hỗ trợ người sử dụng lao động phục hồi phát triển sản xuất - kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động.

Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng người lao động, cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp ổn định sản xuất - kinh doanh. Một số nơi thiếu lao động, biện pháp này hỗ trợ bảo đảm nguồn cung cho doanh nghiệp.

Hỗ trợ kết nối cung cầu lao động: hai bên có cung hoặc có cầu nhưng đôi khi không gặp nhau, chúng ta giúp cho việc kết nối này nhanh hơn.

Hoàn thiện bền vững thị trường lao động: hiện đại hóa thị trường lao động, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động việc làm, có kết nối chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của Bộ Công an.

Bảo đảm điều kiện về nơi sinh sống cho người lao động.

Xây dựng quan hệ giữa người lao động hài hòa, tiến bộ.

Nguồn kinh phí thực hiện chương trình khá lớn, hiện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang trình Chính phủ, như vậy Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư sẽ nghiên cứu để bố trí kinh phí làm sao cho đủ để thực hiện 7 giải pháp này.

Ngoài ngân sách Trung ương, chúng ta cần huy động ngân sách địa phương và huy động xã hội hóa.

Bên cạnh đó, hiện nay chúng ta đã chuyển sang thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 trong trạng thái bình thường mới, do đó cần tận dụng cơ hội này.

Đại dịch Covid-19 đã gây ra nhiều thách thức đối với thị trường lao động Việt Nam, như là thị trường lao động bị chia cắt cục bộ giữa các vùng, các địa phương, gây ra thiếu lao động cho sản xuất - kinh doanh. Mỗi nơi thực hiện các biện pháp phòng chống dịch cho nên việc đi lại giao lưu giữa các vùng cũng khó khăn hơn, gia tăng sự mất cân đối cung cầu lao động cục bộ, gây ra áp lực về giải quyết việc làm cho người lao động.

Tác động của dịch Covid-19 cũng làm gia tăng khoảng cách về kỹ năng của ngời lao động hiện tại và các kỹ năng mà các doanh nghiệp cần để thích ứng với thay đổi về công nghệ và thị trường.

Tuy nhiên khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát, cũng tạo ra nhiều cơ hội lớn để thị trường lao động phát triển. Đó là cơ hội để các doanh nghiệp sắp xếp cơ cấu sản xuất - kinh doanh phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0, cơ hội điều chỉnh phân bổ lại lao động giữa các vùng, các ngành kinh tế, góp phần nâng cao năng suất, thúc đẩy chuyển đổi kinh tế số, kinh tế xanh. Đó là cơ hội phát triển các hình thức giao dịch việc làm, cơ hội đổi mới giáo dục nghề nghiệp, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động.

Để tận dụng được các cơ hội trên, trước hết phải triển khai có hiệuq ủa các giải pháp. Trước hết là phải kiểm soát được dịch bệnh. Người lao động phải được an toàn, sản xuất phải an toàn, an toàn để sản xuất.

Chúng ta cũng phải thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động, và doanh nghiệp khó khăn, như Nghị quyết 68 đã ban hành. Bên cạnh đó, các chính sách về tín dụng, tài khóa, giảm, giãn nợ, thuế phí, cơ cấu lại khoản vay, giảm giãn nợ ngân hàng, tiếp tục hỗ trợ cho vay vốn để sản xuất - kinh doanh. Đồng thời chúng ta cũng sớm ban hành và triển khai một số giải pháp. Trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hiện nay Chính phủ đang nghiên cứu trình các cơ quan có thẩm quyền trong đó có nhiều chính sách khác nhau, hỗ trợ các đối tượng từ người sử dụng lao động, doanh nghiệp cho đến người lao động.

Và Chương trình phát triển thị trường lao động mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang trình Chính phủ, đang xây dựng trong đó chú trọng các giải pháp đào tạo việc làm chất lượng, phát triển kinh tế số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Chúng ta nếu làm tốt chương trình này, sẽ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng và bền vững.

09:52

Thưa TS Vũ Minh Tiến, Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, ông đánh giá như thế nào về các gói chính sách hỗ trợ của Chính phủ với người lao động và người sử dụng lao động để vượt qua những khó khăn trong dịch Covid-19 trong thời gian vừa qua, nhất là trong năm 2021 này như gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68, Nghị quyết 116? Trong thời điểm làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư diễn biến phức tạp, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã có những giải pháp nào để hỗ trợ người lao động?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

TS Vũ Minh Tiến:

Trước khi trả lời 2 câu hỏi, tôi xin thay mặt cho rất nhiều cán bộ công đoàn cả nước, đặc biệt là đoàn viên công đoàn cảm ơn sự quan tâm hỗ trợ của toàn bộ hệ thống chính trị từ cấp cao nhất là Đảng, Nhà nước, tới các cấp các ngành, các doanh nghiệp và các nhà hảo tâm.

Qua gặp trực tiếp công nhân, lao động tự do, có một nhận xét chung là các chính sách của Chính phủ và các cấp, các ngành đối với người lao động trong 2 năm vừa qua được tóm gọn trong “3 từ hơn” và “3 từ nhất”: Các chính sách sau ngày càng kịp thời hơn, thiết thực hơn và thuận tiện hơn.

Riêng 2 gói hỗ trợ gần đây nhất, đặc biệt là gói hỗ trợ từ bảo hiểm thất nghiệp, tất cả công nhân lao động và doanh nghiệp đều rất phấn khởi vì tính kịp thời và thủ tục thuận tiện. Như tôi được biết, hầu hết công nhân lao động và các doanh nghiệp đều đã tiếp cận được gói này. Đầu tiên tôi cũng rất hoang mang với mục tiêu 45 ngày nhưng đến nay về cơ bản đã hoàn thành mục tiêu “tốc tiến, tốc thắng”. Người lao động rất mong có thêm nhiều gói như gói hỗ trợ 68.

Cùng với các cấp các ngành, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong 2 năm qua, đặc biệt là đợt dịch 4 vừa rồi, đã tiếp tục thể hiện vai trò trách nhiệm với người lao động nói chung và với công đoàn, công nhân nói riêng.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã chỉ tạo các cấp công đoàn trực tiếp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người lao động, kịp thời phát hiện những khó khăn của người lao động để kịp thời phản ánh, để kiến nghị với các cấp các ngành về các biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho các lao động khó khăn, đặc biệt là các lao động yếu thế như lao động nữ di cư đang mang bầu, con nhỏ, lao động di cư, nhập cư mất việc.

Tổng Liên đoàn Lao động chưa tổng hợp kịp, nhưng sơ bộ gần 2 năm vừa rồi, tổng nguồn lực hỗ trợ cho lao động vì dịch Covid-19 lên tới gần 6.000 tỷ đồng, gần 1 triệu lượt cán bộ công đoàn các cấp được huy động để chăm lo, giúp đỡ và hỗ trợ cho người lao động, triển khai đến từng doanh nghiệp, từng khu trọ, ngõ xóm nơi công nhân ở... Những phần quà công đoàn, từ nhà hảo tâm được phát cho mọi đối tượng, không phân biệt người lao động trong công đoàn hay ngoài công đoàn, miễn là lao động khó khăn.

Chỉ đạo các cấp công đoàn, đặc biệt là công đoàn cơ sở đối thoại, bàn bạc với người lao động để san sẻ việc làm đều cho người lao động dù ít việc, hỗ trợ một phần lương để người lao động duy trì cuộc sống chờ việc, giữ chân người lao động.

Phát động hàng nghìn sáng kiến, hàng trăm nghìn sáng kiến như ATM gạo, túi quà tình nghĩa, túi quà thực phẩm khô,…

09:54

Xin hỏi ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19 năm 2021, nhất là đợt dịch Covid-19 lần thứ tư, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116 như thế nào? Kết quả đến nay ra sao?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh:

Trên cơ sở triển khai thực hiện Nghị quyết 68 của Chính phủ, Nghị quyết 09 và Nghị quyết 97 của Hội đồng nhân dân Thành phố về các chính sách hỗ trợ cho người dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Trong quá trình thực hiện, Thành phố luôn lắng nghe ý kiến phản ánh của người dân và kiến nghị của địa phương, cơ sở để từng bước hoàn thiện chính sách cho phù hợp với tình hình diễn biến dịch bệnh; đã vận dụng, kết hợp nhiều nguồn lực, trong đó có nguồn lực Nhà nước và các nguồn lực xã hội hóa khác để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố. Tính đến ngày 12/11/2021, Thành phố đã hỗ trợ cho 8.748.900 đối tượng với số tiền 11.912.964.343 đồng.

Thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết 116/NQ-TTg, tính đến ngày 2/11/2021, Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết cho 45.594 đơn vị với 1.613.438 lao động và số tiền đã chi là 3.905 tỷ đồng.

Xin ông cho biết tình hình thị trường lao động - việc làm tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay như thế nào? Các Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố có giải pháp gì đẩy mạnh kết nối thông tin cung - cầu lao động giữa người lao động và doanh nghiệp?

Ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: Từ ngày 1/10/2021, Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu nới lỏng giãn cách xã hội, các doanh nghiệp có quy mô lao động đông vẫn chưa hoạt động hết công suất và rất thận trọng khi tăng quy mô lao động để bảo đảm an toàn trong phòng, chống dịch.

Đến thời điểm hiện nay, quy mô lao động để hoạt động sản xuất tại các doanh nghiệp từ 80%-90% tổng số lao động. Người lao động ở các tỉnh lân cận Thành phố Hồ Chí Minh như Đồng Nai, Bình Dương, Long An… đã quay lại làm việc khi các doanh nghiệp trở lại hoạt động trong trạng thái bình thường mới.

Từ nay đến cuối năm, nếu doanh nghiệp nâng công suất hoạt động bình thường như trước thời điểm diễn ra dịch Covid-19, dự kiến sẽ thiếu hụt lao động khi các doanh nghiệp tập trung tuyển dụng bổ sung cho số lao động ở các tỉnh xa chưa quay lại Thành phố nhưng không ở mức trầm trọng. Song song với đó, Thành phố cũng cho phép mở lại các lĩnh vực dịch vụ thương mại phục vụ cá nhân, góp phần thu hút lao động làm việc trong khu vực phi chính thức quay trở lại hoạt động.

Hiện nay, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp tập trung vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động không yêu cầu tay nghề cao. Do đó, mức lương khởi điểm khi bắt đầu công việc chưa thể bảo đảm cuộc sống cho người lao động và những người phụ thuộc. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp chưa có các chính sách chăm lo tốt cho người lao động để yên tâm làm việc, việc làm của người lao động không ổn định nên sẽ gặp khó khăn khi tuyển dụng lao động.

Sau khi nới lỏng giãn cách xã hội, các trung tâm dịch vụ việc làm công lập đã triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu lao động như: Nắm bắt nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đặc biệt là nhu cầu của các doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Tổ chức các phiên, sàn giao dịch việc làm trực tuyến, thực hiện tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động và kết nối cung - cầu lao động đến các doanh nghiệp. Kết nối các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển lao động nhiều tham gia sàn giao dịch việc làm khu vực đồng bằng sông Cửu Long để tìm kiếm nguồn lao động tại các tỉnh phía nam trong thời gian vừa qua đã quay về tỉnh.

Theo ông, các cơ quan chức năng cần làm gì để hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động vượt qua những khó khăn trong dịch Covid-19 hiện nay nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trở lại sản xuất?

Ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: Qua nắm bắt nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; dự báo nhu cầu nhân lực quý IV/2021 cần khoảng 57.000 lao động. Trong đó, nhu cầu lao động tại các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp gần 30.000 người (lao động phổ thông cần 20.535 người, lao động có tay nghề cần 7.704 người, lao động có trình độ đại học trở lên là 1.573 người); tập trung các ngành giày da - may mặc: 13.851 người, cơ khí: 3.935 người, điện - điện tử: 2.248 người, chế biến thực phẩm: 2.796 người, bao bì: 1.005 người…

Quý I/2022 vừa rơi vào thời điểm đón Tết Nguyên đán, vừa là thời điểm hằng năm các doanh nghiệp cần tuyển nhiều lao động để bổ sung lực lượng lao động chuyển đổi việc làm hoặc người lao động về quê chưa quay trở lại sau Tết. Nếu tình hình dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát tốt nhất, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, dự kiến nhu cầu nhân lực quý I/2022 cần khoảng 75.000 chỗ làm việc cho việc phát triển và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.

Chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới để duy trì việc làm, phục hồi thị trường lao động. Cụ thể là:

- Xây dựng các ứng dụng thu thập thông tin cung - cầu lao động có kết nối với cơ sở dữ liệu chung của quốc gia, như cơ sở dữ liệu dân cư, bảo hiểm xã hội, đăng ký thành lập doanh nghiệp và dữ liệu thuế để nắm bắt tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, tình trạng tham gia hoạt động kinh tế của người lao động, từ đó có các chính sách ứng phó kịp thời hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động.

- Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ người lao động trong giai đoạn đầu quay lại tỉnh, thành phố làm việc, như hỗ trợ kinh phí thuê nhà ở, chi phí sinh hoạt, chi phí vận chuyển, xét nghiệm tầm soát Covid-19…

- Đẩy mạnh liên kết vùng điều tiết cung cầu lao động phục vụ hồi phục phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường tổ chức các phiên, sàn giao dịch việc làm khu vực kết nối cung nhân lực và cầu nhân lực theo yêu cầu của xã hội.

- Xã hội hóa xây nhà lưu trú, ký túc xá, nhà ở giá rẻ cho người lao động có thu nhập thấp, không chỗ ở ổn định. Vận động các chủ nhà trọ hỗ trợ giảm giá phòng trọ để người lao động giảm gánh nặng về nhà ở khi làm việc, sinh sống tại Thành phố.

Từ thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh, mong ông cho biết chúng ta có thể làm gì để giúp người lao động tìm được việc làm tốt trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát?

Ông Lê Minh Tấn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh: Công tác kết nối cung - cầu lao động đã phần nào hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng như người lao động nhanh chóng gặp nhau, giải quyết được bài toán về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, công tác kết nối thông tin thị trường lao động cần có sự phối hợp giữa các tỉnh, thành phố. Đặc biệt là đợt dịch vừa rồi, tại các thành phố lớn thực hiện giãn cách xã hội, người lao động đã quay về quê để tránh dịch đã ảnh hưởng phần nào đến thị trường lao động.

Đối với tỉnh, thành phố cần thu hút lực lượng lao động trở lại làm việc trong các doanh nghiệp cần có thông tin dữ liệu về việc làm như ngành, nghề có nhu cầu lao động, các yêu cầu về chuyên môn, tay nghề, tiền lương thu nhập và các chính sách hỗ trợ người lao động làm việc trong các doanh nghiệp.

Các tỉnh có lực lượng lao động quay trở về cần nắm bắt thông tin nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động, mức độ sẵn sàng quay trở lại làm việc cũng như các yêu cầu đối với công việc. Trên cơ sở thông tin nắm bắt sẽ có sự phối hợp chặt chẽ để đưa người lao động quay trở lại làm việc tại các tỉnh, thành phố có tổ chức, có kiểm soát nhằm hạn chế lây lan dịch bệnh và kịp thời có các biện pháp hỗ trợ phù hợp cho người lao động khi đến làm việc. Tăng cường các sàn giao dịch việc làm liên vùng để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các ứng viên vào các vị trí đang có nhu cầu tuyển dụng.

09:58

Thưa ông Lê Tiến Trường, ông có thể chia sẻ về những tác động của dịch Covid-19 trong năm 2021 với Tập đoàn Dệt may Việt Nam nói riêng, và của ngành dệt may nói chung, nhất là trong đợt dịch Covid-19 lần thứ tư? Lực lượng lao động của các đơn vị có gặp khó khăn gì? Có hay không tình trạng thiếu lao động tại các nhà máy? Và doanh nghiệp đã áp dụng những giải pháp nào để duy trì sản xuất trong đại dịch?

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tập đoàn Dệt may Việt Nam

Có thể nói, ngành dệt may là ngành công nghiệp thâm dụng lao động số một Việt Nam, với quy mô lao động trong các nhà máy trên cả nước hiện nay khoảng gần 3 triệu lao động công nghiệp. Riêng Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng có đến 155 nghìn lao động trải dài trên hơn 40 địa phương. Năm 2021 là năm dịch bệnh đặc biệt ở Việt Nam, tuy nhiên có thể nói đối với những ngành xuất khẩu thì đây cũng là năm tương đối khác. Theo đó, năm 2020, chúng ta có sự ổn định trong nước cao hơn so với thế giới. Tổng cầu thế giới dừng lại nên năm 2020 chúng ta ở trạng thái “được làm nhưng không có việc làm”.

Năm 2021 thị trường thế giới mở cửa trở lại, các nền kinh tế lớn hoạt động tương đối bình thường hơn trong điều kiện bình thường mới; chúng ta lại rơi vào trạng thái “có việc làm nhưng khó tổ chức thực hiện sản xuất - kinh doanh để phát triển”. Tất nhiên, đến giờ phút này chúng ta có thể nói, đối với ngành dệt may Việt Nam thì năm 2021 vẫn là một năm thực hiện tốt kế hoạch sản xuất - kinh doanh. Về cơ bản, chúng ta coi như quay lại được mức kim ngạch xuất khẩu cỡ ngang bằng năm 2019 trước dịch, tức là vượt hơn 10% so với năm 2020, đạt 38,5-39 tỷ USD.

Điểm đặc biệt của năm nay là làn sóng dịch thứ tư xảy ra tập trung ở 19 tỉnh phía nam. Như chúng ta đã biết, tất cả 19 tỉnh này không cho phép tổ chức sản xuất, hoặc chỉ tổ chức sản xuất "3 tại chỗ một cung đường 2 điểm đến". Và 40% năng lực sản xuất ngành dệt may Việt Nam nằm ở 19 tỉnh này. Trong 3 tháng không hoạt động, 40% này chỉ hoạt động được ở ngưỡng 20-30%. Đấy là cái khó khăn số một.

Đối với Tập đoàn Dệt may Việt Nam, trong tổng số 155 nghìn lao động thì cơ đến 65 nghìn lao động nằm ở khu vực này. Ở thời điểm cao điểm nhất có tới 56 nghìn lao động ko thể đến làm việc tại doanh nghiệp. Thực tế này buộc chúng ta phải tổ chức sản xuất. Ngay từ tháng 5, Tập đoàn đã phân tích, xác định rằng việc thực hiện giải pháp 3 tại chỗ đối với ngành dệt may là rất khó, vì một doanh nghiệp may quy mô khoảng 3.000-5.000 lao động nằm trên một khuôn viên đất khoảng 3-5 ha thôi thì không thể bố trí con người làm ở trong đó được. Thứ hai, nếu bố trí mật độ khoảng 20-30% lao động thì cũng không đủ để giải quyết đơn hàng về mặt tiến độ, số lượng. Chính vì thế, chúng tôi xác định phải sàng lọc và thảo luận với khách hàng ngay. Những khách hàng ưu tiên và những đơn hàng còn ưu tiên thì chỉ để 10-20% lao động làm "3 tại chỗ", và phục vụ trọn gói nhóm này, còn lại những nhóm khác phải chấp nhận rút lui ra khỏi thị trường đó trong thời gian bị đóng cửa.

Tuy nhiên ngược lại, những nhóm sản xuất nguyên liệu là nhóm có diện tích nhà xưởng lớn, lao động ít, trình độ tự động hóa cao như sản xuất sợi, sản xuất vải, thì lại huy động 100% "3 tại chỗ" để tối đa hóa công suất nhằm duy trì doanh thu, kim ngạch cũng như hệ thống tài chính của toàn Tập đoàn.

Trong giai đoạn lao động ở nhà như hiện nay, để bảo đảm giữ được lao động, riêng với nhóm công nhân của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, chúng tôi cũng đã triển khai các giải pháp như thành lập các nhóm Zalo đến tận từng khu ở của người lao động. Ngoài ra, bản thân lực lượng cán bộ cũng phải phân loại lao động để ở thành từng cụm, bố trí cụm đấy thành từng truyền sản xuất, để nhỡ cơ một người trong một cụm mắc Covid-19 thì chỉ một dây chuyền đấy phải nghỉ thôi, tránh tình trạng lao động ở cùng 1 khu trọ nhưng rải ra 20 dây chuyền khác nhau, một người bị thì cả 20 dây chuyền phải đóng cửa.

Trong giai đoạn người lao động phải nghỉ việc, doanh nghiệp có truyền thống vẫn chấp nhận có chi trả thu nhập cho người lao động bằng mức tối thiểu vùng. Đấy là yêu cầu, điều kiện cơ bản để có thể giữ được lao động khi mà chúng ta mở cửa trở lại. Tuy nhiên, lao động ở trạng thái lao động tự do, không kiểm soát thực sự sẽ rất là khó.

Với câu hỏi ngành dệt may quay trở lại hoạt động có thiếu lao động không? Chúng ta phải phân biệt 2 khái niệm thiếu lao động. Bản thân ngành dệt may và các ngành thâm dụng lao động đang phát triển với tốc độ cao ở Việt Nam luôn trong trạng thái cạnh tranh về lao động, kể cả khi không có dịch Covid-19. Không được đánh đồng sự thiếu lao động vì dịch bệnh với thiếu lao động do bản chất tốc độ phát triển của ngành có sức hút lớn về lao động.

Chúng tôi đánh giá, đến giờ phút này câu chuyện thiếu lao động cục bộ vì sự dịch chuyển của lao động do Covid-19 chủ yếu diễn ra với các doanh nghiệp trẻ, mới thành lập ở khu công nghiệp, không tuyển dụng được lao động địa phương và có sự di dời lao động từ địa phương khác tới. Nhưng với những doanh nghiệp có truyền thống, có tuổi đời lâu năm, có chế độ chính sách an sinh xã hội tốt và tham gia đầy đủ với cơ quan quản lý nhà nước, phần lớn chỉ tuyển lao động chung quanh địa phương. Bản thân các doanh nghiệp cũng bố trí, hình thành lâu đời khu trọ mang tính chất tự quản, rất gần gũi. Những doanh nghiệp lớn lâu năm không có tình trạng lao động bỏ về quê lớn, mà điều này xảy ra với doanh nghiệp trẻ thì nhiều.

Đối với Tập đoàn Dệt may Việt Nam thì có sự khác biệt. Chúng tôi là những doanh nghiệp tương đối lâu năm như Việt Tiến, Nhà Bè, những tên tuổi rất lớn trên thị trường lao động ngành may, chúng tôi ít có lao động là người dân di chuyển từ các vùng về, cho nên nói thiếu lao động vì dịch chuyển di cư cũng không hoàn toàn đúng. Chính vì thế, tính từ khi mở cửa hoạt động trở lại ngày 1/10 đến 15/10, doanh nghiệp trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có 92% lao động quay trở lại làm việc.

Đến giờ phút này, trong 65 nghìn lao động của Tập đoàn thì chỉ có 1.200 người không giữ được mối liên hệ. Đây cũng là bài học trong câu chuyện như TS Ngô Quỳnh An đã chia sẻ, đấy là chính sách nội tại của doanh nghiệp, cộng với chính sách an sinh xã hội của đất nước hoàn chỉnh, tạo ra một nền tảng, sức cạnh tranh về giữ lao động trong doanh nghiệp của mình.

Đây là những bài học chúng tôi thấy được qua đợt dịch, mặc dù vẫn đang còn diễn biến phức tạp, chưa biết đến lúc nào kết thúc và quay trở lại bình thường, nhưng rõ ràng bài học về việc có một hệ thống an sinh của đất nước, cộng với hệ thống chính sách mang tính nội tại của doanh nghiệp thật hoàn chỉnh, đó sẽ là điều kiện cơ bản để thị trường lao động, lực lượng lao động của ta phát triển bền vững hơn trong lâu dài. Nhất là ở một đất nước có tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lên đến hơn 60 triệu người như Việt Nam, thì đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho phát triển.

10:00

Qua đợt dịch Covid-19 lần thứ tư đã thấy hiện hữu nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng nhân lực của thị trường lao động nước ta. Việc người lao động từ các tỉnh, thành phố khu vực phía nam về quê tránh dịch rất được quan tâm. Ông có cho rằng có tình trạng thiếu hụt lao động sau khi dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát? Làm sao để có thể tránh được tình trạng này? Chính sách nào để giữ chân được người lao động sau đại dịch?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội:

Do tác động mạnh của dịch bệnh Covid-19 đã dẫn đến có sự dịch chuyển lao động lớn từ thành thị về nông thôn, từ các trung tâm kinh tế lớn về các tỉnh: thời gian qua đã có khoảng 1,3 triệu lao động từ TP Hồ Chí Minh và các tỉnh trọng điểm phía nam về các địa phương (chiếm khoảng 60% số người dân di chuyển, trong đó khoảng 292 nghìn người về từ TP Hồ Chí Minh và 450 nghìn người trở về từ một số tỉnh trọng điểm phía nam). Một số tỉnh có số lao động lớn trở về là Thanh Hóa (160 nghìn người), Sóc Trăng (99,7 nghìn người), Nghệ An (75,8 nghìn người); Đắc Lắk (75 nghìn người), Cà Mau (58,7 nghìn người), An Giang (65 nghìn người), Sóc Trăng (50,7 nghìn người), Hà Tĩnh (36 nghìn người), Kiên Giang (32 nghìn người), Hậu Giang (20 nghìn người),...

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Qua khảo sát tại các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm cho thấy: Có sự thiếu hụt lao động cục bộ song không nhiều vì: các doanh nghiệp chưa trở lại hoạt động 100% (hiện có khoảng 70-75% doanh nghiệp, 50-60% lượng lao động so với trạng thái bình thường), mặt khác nhiều doanh nghiệp đã có chính sách giữ chân, như Tập đoàn Dệt May Việt Nam thường xuyên giữ mối liên hệ với người lao động nên mức độ thiếu hụt lao động không đáng kể.

Tuy nhiên, vào khoảng tháng 1/2022 là thời điểm mà nhu cầu hàng hóa chuẩn bị cho Tết Nguyên đán rất cao, cần sử dụng nhiều lao động để phục hồi sản xuất, đặc biệt ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Sự thiếu hụt lao động có thể tăng vào thời gian cuối quý I và quý II/2022 khi các doanh nghiệp được hoạt động trở lại với công suất cao nhất thì nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ tăng cao. Dự kiến trong năm 2022, số lao động có nhu cầu tuyển dụng khoảng 700 nghìn người.

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Nguy cơ thiếu hụt lao động sẽ được ngăn chặn nếu như có các giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và bảo đảm an sinh xã hội, sức khỏe cho người lao động trong điều kiện trạng thái “bình thường mới”. Cụ thể như:

- Nỗ lực phòng chống, dịch, bảo đảm an toàn, bảo đảm duy trì việc làm với chính sách “tại chỗ” và di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc, cùng các hình thức khác phù hợp với từng doanh nghiệp để duy trì việc làm.

- Thực hiện các chế độ bảo đảm an toàn phòng, chống dịch cho người lao động để người lao động yên tâm sản xuất, kinh doanh.

- Đối với lao động ngừng việc do doanh nghiệp phải tạm dừng sản xuất hoặc có người lao động về quê, các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp nhằm "giữ chân" lao động như: (i) chủ động giữ thông tin, liên lạc để sẵn sàng kêu gọi người lao động quay trở lại sản xuất khi tình hình dịch được kiểm soát thông qua lập các nhóm trên mạng xã hội, internet với người lao động; (ii) thực hiện các chế độ hỗ trợ, phúc lợi người lao động (trả lương ngừng việc, hỗ trợ bằng tiền đối với một số ngày nhất định khi tạm hoãn, nghỉ việc không lương), (iii) áp dụng các biện pháp ngừng việc có trả lương, hoặc tạm hoãn/nghỉ việc không lương thay cho việc chấm dứt hợp đồng lao động để "giữ chân" lao động…

10:03

Thưa ông Phạm Văn Tuyên, mong ông cho biết tình hình thị trường lao động - việc làm tại Bình Dương hiện nay và dự báo tình hình lao động trong thời gian tới?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Phạm Văn Tuyên, Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương:

Sau khi trở lại trạng thái bình thường mới, tỉnh đã tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp tiếp tục kiểm soát, điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 và thực hiện các chính sách từng bước phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội để chăm lo, ổn định đời sống của người dân, người lao động trên địa bàn tỉnh.

Tỉnh đã tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, nối lại các chuỗi cung ứng sản xuất, chuỗi cung ứng lao động; triển khai từng bước thận trọng, chặt chẽ, chắc chắn theo phương châm “An toàn tới đâu mở cửa tới đó, mở cửa thì phải an toàn”, “An toàn mới sản xuất, sản xuất phải an toàn”. Tỉnh đã tổ chức tiêm vaccine mũi 2 cho người dân, người lao động, trong đó, ưu tiên cho công nhân, người lao động để đủ điều kiện đi làm, tham gia lao động, sản xuất, từng bước ổn định cuộc sống.

Ngoài ra, để thu hút, hỗ trợ đón người lao động từ các tỉnh, thành phố có nhu cầu trở lại làm việc tại tỉnh Bình Dương, ngày 21/10/2021, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 5343/KH-UBND, theo đó: người lao động được ưu tiên tiêm vaccine phòng Covid-19, hỗ trợ việc trở lại Bình Dương, tỉnh cũng thực hiện công tác thông tin thị trường lao động, kết nối cung - cầu lao động trong và ngoài tỉnh để tìm kiếm, cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Đến nay, tỉnh Bình Dương có 750.000 người lao động trở lại làm việc (đạt tỷ lệ 71% so số lao động cuối tháng 4/2021, trong các khu công nghiệp có 87% lao động đã trở lại làm việc). Dự kiến tới cuối tháng 11, có khoảng hơn 1 triệu người lao động sẽ trở lại làm việc.

Hiện nay, các doanh nghiệp trở lại sản xuất theo phương án phòng, chống dịch (3 xanh, 3 tại chỗ, 3 tại chỗ chuyển sang 3 xanh) vẫn chưa sử dụng hết số lao động theo công suất của doanh nghiệp; đang tập trung liên hệ và sử dụng nguồn lao động trước đây của doanh nghiệp hiện ở Bình Dương hoặc tuyển dụng người lao động đang ở Bình Dương (được tiêm ngừa theo quy định).

Dự báo tình hình thị trường lao động tỉnh Bình Dương sẽ không có tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng trong tháng 12/2021 và quý I/ 2022; nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp sẽ tăng mạnh từ quý II/2022 để đáp ứng yêu cầu sản xuất (trường hợp dịch Covid-19 được kiểm soát hiệu quả).

Bình Dương đã có các giải pháp gì để đẩy mạnh kết nối thông tin cung - cầu lao động giữa người lao động và doanh nghiệp?

Ông Phạm Văn Tuyên, Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương:

Để tạo thuận lợi trong việc kết nối thông tin thị trường lao động trong tình hình mới, tỉnh Bình Dương triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin kết nối thông tin thị trường lao động, hỗ trợ người lao động tìm việc. Cụ thể:

- Triển khai việc thu thập việc làm trống, cập nhật thông tin tuyển dụng của doanh nghiệp và nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động vào cơ sở dữ liệu cung - cầu lao động qua website vieclambinhduong.vn, kết nối trực tuyến người sử dụng lao động với người lao động: doanh nghiệp chủ động cung cấp thông tin về nhu cầu, số lượng và vị trí tuyển dụng và cử cán bộ thực hiện phỏng vấn ngay tại công ty qua phần mềm hỗ trợ; về phía người lao động, chỉ cần có kết nối internet trên máy tính hoặc điện thoại… là có thể tìm hiểu một cách đầy đủ nhất thông tin về doanh nghiệp và thực hiện trả lời phỏng vấn trực tuyến.

- Tổ chức các phiên giao dịch việc làm online trên website vieclambinhduong.vn: việc kết nối cung - cầu lao động không chỉ trong phạm vi tỉnh, mà kết nối với tất cả các tỉnh có nguồn lao động (thông qua hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh). Người lao động ở các tỉnh có nhu cầu tìm việc làm tại Bình Dương chỉ cần truy cập vào website sẽ được tiếp cận tất cả thông tin tuyển dụng tại phiên giao dịch việc làm; người lao động và người sử dụng lao động dễ dàng tiếp cận, trao đổi các thông tin liên quan đến vị trí công việc cần tuyển dụng.

Bên cạnh đó, Bình Dương thiết kế phần mềm chat tìm việc nhanh cũng trên website người lao động có thể trao đổi trực tuyến với tư vấn viên của trung tâm, sau đó được tư vấn viên kết nối với doanh nghiệp phỏng vấn.

- Ngoài ra, Bình Dương đưa vào sử dụng trang zalo “Trung tâm Dịch vụ việc làm Bình Dương”, hỗ trợ người lao động các thông tin về chính sách Bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo nghề và việc làm; lao động có thể đăng ký tìm việc trực tiếp trên trang zalo. Trên cơ sở thông tin ứng viên tìm việc, nhân viên Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh kết nối việc làm phù hợp, nhanh nhất.

Trong thời gian qua, tỉnh Bình Dương đã triển khai các gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116 như thế nào?

Ông Phạm Văn Tuyên, Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương:

Trên cơ sở nhiệm vụ được Ủy ban Nhân dân tỉnh giao, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bình Dương đã ban hành trên 30 văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ đến Ủy ban nhân dân các cấp để hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện; phối hợp cùng các cấp, các ngành thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách hỗ trợ đến người dân, người lao động, người sử dụng lao động biết và thực hiện.

Kết quả, về thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, tính đến 16 giờ ngày 15/11/2021, tỉnh Bình Dương đã chi hỗ trợ cho 1.151.090 trường hợp, với số tiền là 1.787,017 tỷ đồng (không tính chính sách giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất, Chính sách vay trả lương ngừng việc).

Đối với việc thực hiện Nghị quyết 116, Bình Dương đã hỗ trợ 12.282 đơn vị giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp với số tiền 415,379 tỷ đồng (theo số liệu tạm tính tại tháng 9/2021, thời gian 12 tháng), đã hoàn thành việc thông báo hỗ trợ đến người sử dụng lao động.

Ngoài ra, Bình Dương tiếp nhận và phê duyệt hỗ trợ cho người lao động với 788.229 hồ sơ và số tiền hỗ trợ là 1.118,5 tỷ đồng. Đã chi hỗ trợ 786.220 trường hợp với số tiền 1.814,4 tỷ đồng, đạt 99,7% so với số được duyệt hỗ trợ.

Nhiều chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 68/NQ-CP đã phát huy tác dụng hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động. Tuy nhiên, còn một số chính sách hỗ trợ phát sinh ít, thậm chí chưa phát sinh. Cụ thể:

- Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất: Số phát sinh đề nghị hỗ trợ thấp so với số doanh nghiệp trên địa bàn, nguyên nhân là do sau khi tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất thì doanh nghiệp phải đóng bù cùng kỳ với đóng phát sinh mới vào quỹ nên không kích thích doanh nghiệp/đơn vị đề nghị hỗ trợ.

- Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động: cho đến nay chưa phát sinh hồ sơ đề nghị, do từ đợt dịch Covid-19 thứ tư đến nay, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng đang cố gắng bằng nhiều giải pháp tiếp tục hoạt động theo ngành nghề, công nghệ hiện tại khi tình hình dịch được kiểm soát tốt, chưa có nhu cầu thay đổi công nghệ hoặc tái cơ cấu lao động.

- Chính sách vay vốn trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất: chưa thu hút được người sử dụng lao động vay. Nguyên nhân là số tiền vay để chi trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho người lao động với mức cho vay thấp, thời gian ngắn và người sử dụng lao động có nhiều lựa chọn khác để không phải vay.

- Hiện nay, theo ghi nhận từ báo cáo của Bảo hiểm xã hội tỉnh, công tác chi hỗ trợ theo Nghị quyết 116/NQ-CP hiện chưa có khó khăn, trở ngại lớn. Hiện nay, việc rà soát, đối chiếu thông tin, dữ liệu người lao động cần chặt chẽ để tránh trùng, sót nên chưa thể rút ngắn được thời gian giải quyết. Một số người sử dụng lao động chưa hoạt động trở lại, hoặc người lao động về quê nơi cư trú hiện chưa quay lại làm việc cũng ảnh hưởng đến tiến độ rà soát, tổng hợp thông tin của người sử dụng lao động.

10:08

Thưa TS Ngô Quỳnh An, Bà đánh giá như thế nào về tình trạng dịch chuyển trên của người lao động? Những nguyên nhân chính là do đâu, liệu có phải do những lỗ hổng trong chính sách an sinh xã hội? Dịch Covid-19 cũng tạo nên nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng lao động trong và sau các làn sóng dịch. Chúng ta cần làm gì để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

TS Ngô Quỳnh An, Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực (Đại học Kinh tế quốc dân):

Với tư cách là 1 chuyên gia nghiên cứu về thị trường lao động, tôi xin chia sẻ một số quan điểm như sau.

Thứ nhất, khi dịch Covid-19 xảy ra một cách đột ngột thì có nguy cơ xóa đi toàn bộ thành tựu dựa trên cơ sở sáng kiến của nhân loại trong việc tổ chức xã hội, tổ chức các hoạt động kinh tế và tổ chức thị trường lao động dựa trên các chuỗi giá trị và có một mối liên kết ngày càng chặt chẽ, ngày càng rộng, thường được gọi là “toàn cầu hóa, hội nhập”.

Chính mối liên kết này với cách chúng ta tổ chức lao động, tổ chức cung ứng dịch vụ an sinh xã hội dựa thì đều dựa trên cơ sở tiếp xúc trực tiếp, dựa trên cơ sở di chuyển lao động một cách tự do. Do đó, khi dịch Covid-19 xuất hiện thì chính quá trình tiếp xúc trực tiếp và di chuyển lao động tự do lại làm lây lan virus diện rộng thì giải pháp cuối cùng của chúng ta là hạn chế sự di chuyển cũng như hạn chế sự tiếp xúc.

Chính vì sự thay đổi đột ngột như trên dẫn đến việc cần phải thay đổi cách thức để chúng ta kết nối với nhau, như kết nối với nhau từ xa, trên Internet thay vì kết nối và tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Như vậy, không phải là chúng ta không có các chính sách an sinh xã hội, chính sách quản lý thị trường lao động hợp lý mà vấn đề đặt ra là chúng ta cần tổ chức các chính sách đó, tổ chức cách thức quản lý đó theo một phương thức khác để thích ứng với dịch Covid-19, bởi vì không ai có thể khẳng định là đại dịch này kết thúc khi nào.

Chính vì vậy, chúng ta bắt buộc phải có các giải pháp thích ứng, từ quy mô quốc gia đến địa phương, đến từng doanh nghiệp và từng người lao động đều bắt buộc phải nâng cao năng lực để thích ứng với dịch, chuyển từ tiếp xúc trực tiếp và di chuyển tự do sang kết nối từ xa, hạn chế tiếp xúc trực tiếp.

Thứ hai, khi đại dịch xảy ra, chúng ta nhận thức được vai trò quan trọng của sự bình đẳng, mà chúng tôi vẫn gọi là “bình đẳng Covid” hay “bình đẳng hoàn hảo”.

Tôi lấy thí dụ, trong cộng đồng chỉ cần 1 người ở bất kỳ vị trí nào, ở trình độ nào có rủi ro, chưa được bảo đảm an toàn thì dẫn đến cả cộng đồng rủi ro. Như vậy thì nhiệm vụ đặt ra là cần hỗ trợ người lao động nhập cư, là nhóm đối tượng rất dễ bị tổn thương vì có thu nhập thấp, thu nhập bấp bênh, không có bảo hiểm xã hội nhất là lao động trong khu vực phi chính thức… có tỷ lệ rủi ro sức khỏe rất cao. Bởi vì, khi chúng ra không bảo vệ và hỗ trợ được nhóm này trước rủi ro thì có nghĩa là cả cộng đồng đó, cả địa phương đó có rủi ro.

Chính vì vậy, nhiệm vụ “hòa nhập” và hỗ trợ để nhóm đối tượng này an toàn trong đại dịch là nhiệm vụ của cộng đồng đó, của địa phương đó nhằm mang lại an toàn cho chính cộng đồng, địa phương đó, chứ không phải là từ thiện hay giúp đỡ nữa.

Tôi cho rằng có mấy điểm cần lưu ý: thứ nhất là chúng ta cần thay đổi phương thức tổ chức lao động, cung ứng các dịch vụ an sinh xã hội; thứ hai là cần nhận thức rõ ràng về vai trò của bình đẳng để giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội.

10:15

Thưa ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Samsung Việt Nam, xin ông cho biết chính sách của doanh nghiệp trong việc hỗ trợ người lao động và duy trì sản xuất trong đại dịch?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Samsung Việt Nam:

Trong khoảng thời gian 3 tháng đầu tiên của làn sóng Covid lần thứ 4, Samsung đã tuân thủ theo phương án phòng chống dịch “3 tại chỗ, công ty đã duy trì hoạt động sản xuất không gián đoạn thông qua việc cho nhân viên ở tại ký túc xá trong công ty, hoặc trong nội bộ nhà máy, trường học gần công ty…

Ngoài ra, tất cả 110 ngàn công nhân viên của Samsung Việt Nam đều tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc 5K, duy trì khoảng cách, công ty đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân viên an tâm làm việc trong nhà máy an toàn như cấp phát khẩu trang KF 94 cho nhân viên cũng như tiến hành xét nghiệm PCR 2 lần một tuần…

Mặt khác, ban lãnh đạo của Samsung cũng thường xuyên thăm các công ty cung ứng để thăm hỏi động viên công nhân viên, cố gắng để cùng các công ty cung ứng vượt qua thời kỳ khó khăn bằng cách chỉ đạo áp dụng thống nhất các biện pháp phòng chống dịch, hỗ trợ một phần kinh phí phòng dịch Covid… Thông qua đó, Samsung có thể duy trì năng suất sản xuất, và đạt được tăng trưởng tốt hơn so với năm ngoái.

Thưa ông Choi Joo Ho, ông có đề xuất gì để các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài hồi phục nhanh sau đợt dịch thứ tư, giải bài toán thiếu hụt nguồn nhân lực?

Ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Samsung Việt Nam:

Trong làn sóng Covid lần thứ 4 này, tiêu chí và chính sách phòng chống dịch của một số địa phương đôi khi không nhất quán. Đối với các doanh nghiệp, việc dự đoán để quản trị nhân lực hiệu quả và xây dựng kế hoạch sản xuất là rất cần thiết tuy nhiên doanh nghiệp không thể dự đoán được tình hình nên gặp phải những khó khăn trong kinh doanh.

Tuy nhiên, gần đây Chính phủ đã xây dựng và thực hiện các tiêu chí quản lý phòng dịch chuẩn hóa giúp giảm thiểu yếu tố bất ổn trong kinh doanh, và hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp trong việc điều hành công ty.

Sau này, trong nhưng tình huống tương tự xảy ra, chúng tôi cũng mong rằng các cơ quan sẽ xây dựng các quy định chuẩn hóa, đồng thời trao đổi thông tin đầy đủ với các doanh nghiệp trước khi thực hiện để đảm bảo thời gian chuẩn bị tối thiểu cho các doanh nghiệp. Được như vậy thì các doanh nghiệp có thể tích cực tuân thủ các quy định phòng chống dịch Covid-19, và cũng góp phần hỗ trợ lớn cho doanh nghiệp trong kế hoạch sản xuất và quản trị nhân lực.

10:25

Dưới góc nhìn của một chuyên gia, những chính sách hỗ trợ trong chương trình hỗ trợ phục hồi thị trường lao động, cần chú trọng nhất tới những giải pháp gì để hỗ trợ tốt nhất cho người lao động và doanh nghiệp, thưa Bà?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

TS Ngô Quỳnh An, Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực (Đại học Kinh tế quốc dân):

Để hỗ trợ tốt nhất cho người lao động và doanh nghiệp, trong tọa đàm, các đại biểu cũng đã có những đánh giá về chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động.

Theo tôi, về phía doanh nghiệp, thứ nhất, tôi thấy các doanh nghiệp cần phải cải thiện năng lực sẵn sàng trong các tình huống khẩn cấp. Đây là điều quan trọng nhất.

Thứ hai, tôi nghĩ chúng ta không chỉ dồn hết trách nhiệm cho doanh nghiệp, vì một mình họ không đủ năng lực đảm đương việc phục hồi lao động và sản xuất. Theo tôi, phải hỗ trợ như có quỹ hỗ trợ dự phòng để họ hỗ trợ cho lao động của doanh nghiệp đang hồi hương và bây giờ muốn thu hút họ trở lại, phải có quỹ hộ trợ nhất định.

Bên cạnh đó, tăng cường quản lý về lao động trên thị trường lao động để hỗ trợ doanh nghiệp có thông tin về danh tính người lao động trong quá trình tuyển dụng, hỗ trợ trong quá trình quản lý người lao động chứ không để doanh nghiệp tự làm việc đó. Trong tiến tình này, tôi nghĩ rằng việc số hóa thị trường lao động là then chốt và phải đẩy nhanh tiến trình này, thậm chí đẩy nhanh gấp 5-10 lần so với lộ trình đặt ra từ đầu.

Giải pháp cần hỗ trợ doanh nghiệp nữa là có cơ chế hỗ trợ tiền lương. Trong trường hợp doanh nghiệp dừng sản xuất mà khả năng hỗ trợ tiền lương cho người lao động khó khăn, thì chúng ta phải có quỹ hỗ trợ doanh nghiệp trong vấn đề này.

Trong giai đoạn dịch bệnh xảy ra, cả cộng đồng đều nhận thức rõ vai trò của bảo hiểm thất nghiệp. Vì vậy, phải thúc đẩy trách nhiệm của doanh nghiệp cũng như bản thân người lao động tích cực tham gia vào chính sách bảo hiểm hiểm thất nghiệp, coi là yếu tố sống còn để chúng ta có thể "sống qua" đại dịch và có thể tiếp tục duy trì sản xuất. Ngoài ra, còn có hỗ trợ về thuế, vốn sản xuất. Đây là những giải pháp cần quan tâm đối với doanh nghiệp.

Đối với người lao động, tôi cho rằng, việc này đòi hỏi huy động sự tham gia của cả cộng đồng, của các cấp chính quyền vào nhận thức sự hỗ trợ với người lao động ở địa phương cũng như lao động nhập cư, lao động trong khu vực phi chính thức chứ không chỉ làm từ thiện hay chỉ hỗ trợ nhóm lao động yếu thế.

Trong quá trình hỗ trợ như vậy, chúng ta phải huy động duy trì sự hỗ trợ của cộng đồng chứ không chỉ Nhà nước; doanh nghiệp phải huy động cả sự tham gia của tổ chức dân sự. Đồng thời, người thụ hưởng, tức là bản thân người lao động được tham gia thiết kế chương trình hỗ trợ cho chính bản thân họ - thấy được vai trò của họ trong các chính sách hỗ trợ họ để họ để ổn định cuộc sống trong tiến trình dịch bệnh vẫn tiếp tục xảy ra, bảo đảm có được việc làm, có được thu nhập ổn định.

10:27

Thưa TS Nguyễn Tú Anh: Tại diễn đàn Quốc hội, có ý kiến cho rằng, sự đứt gẫy của các chuỗi cung ứng và sự dịch chuyển của người lao động về quê từ các tỉnh, thành phố phía nam đã cho thấy cần một cách tiếp cận mới. Thí dụ không nên tập trung các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp, sử dụng lực lượng lớn lao động còn yếu kỹ năng như hiện nay tại các đô thị lớn. Quan điểm của ông thế nào về tư duy thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

TS Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương:

Trước tiên tôi muốn trao đổi qua 1 số ý kiến tại diễn đàn Quốc hội cho rằng chúng ta không nên tập trung vào các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp, sử dụng lực lượng lớn lao động tại các đô thị lớn. Tôi cho rằng đây là 1 quan điểm đúng về mặt dài hạn, nhưng trước mắt chúng ta phải nhìn vào thực tế, chúng ta hiện phải đối mặt với 2 xung lực, 1 là lực đẩy, 2 là lực kéo đối với vấn đề này.

Thứ nhất, trong lực đẩy, chúng ta có 1 nguồn lao động thiếu kỹ năng rất lớn. Đến năm 2021, chúng ta chỉ có khoảng 26,1% lực lượng lao động đã qua đào tạo và có chứng chỉ. Như vậy, phần lớn lực lượng lao động của chúng ta được xem là không có kỹ năng. Lực đẩy ở đây có nghĩa là chúng ta cần phải tạo ra việc làm cho những người lao động không có kỹ năng này, dẫn đến cần phải phát triển các ngành thâm dụng lao động để tạo việc làm cho người lao động là yêu cầu cấp bách trước mắt không thể tránh khỏi.

Về mặt lực kéo, các đô thị lớn có lợi thế vượt trội so với các khu vực khác. Thứ nhất, họ có lợi thế nhờ quy tụ, tức đô thị lớn quy tụ rất nhiều lợi thế thuận lợi về giao thông, tập trung nguồn nhân lực có kỹ năng. Thí dụ như Hà Nội có đầy đủ các giáo sư, tiến sĩ, có các viện nghiên cứu, nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng đều quy tụ ở đây, do đó có lợi thế rất lớn. Thứ hai là lợi thế về giao thông vận tải. Thí dụ, tại sao lại tập trung ở TP Hồ Chí Minh mà không chuyển về Sóc Trăng? Chi phí vận chuyển 1 container từ Sóc Trăng lên cảng ở TP Hồ Chí Minh để đi ra nước ngoài cao gấp 3 lần so với chi phí vận chuyển ra nước ngoài. Như vậy, sẽ khó để đưa các ngành công nghiệp ra khỏi các khu đô thị lớn. Thực tế chúng ta nhìn vào Seoul (Hàn Quốc), họ cũng đã chật vật trong 30 năm nay để chuyển các khu công nghiệp ra khỏi thành phố và đều thất bại, tất cả đều có lý do từ sức hút của các đô thị lớn.

Quay lại vấn đề xu hướng này là đúng về dài hạn, tức chúng ta phải thúc đẩy xu hướng này, vì khi tích tụ quá lớn ở các khu đô thị sẽ dẫn đến 1 loạt các hệ lụy, như chi phí hạ tầng đắt đỏ, chi phí cuộc sống rất lớn, nhà cửa, đất đai sẽ tăng giá rất cao, làm cho chi phí đời sống tăng cao, bên cạnh chi phí về môi trường. Tất cả những vấn đề này nếu cuốn theo vòng xoáy buộc chúng ta càng phải đầu tư nhiều cho đô thị lớn, dẫn đến không có nguồn lực đầu tư cho các vùng khác, kéo theo sự chênh lệch giữa các đô thị lớn với các vùng khác càng lớn, đồng thời dẫn đến sức hút về các đô thị lớn lại càng lớn.

Để giải quyết vấn đề này, tôi cho rằng trước mắt chúng ta phải chấp nhận thực tế này nhưng cần có các chính sách để giải quyết vấn đề này, thứ nhất cần đẩy nhanh đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng, làm sao tăng kết nối giữa nội vùng và liên vùng để làm sao các đô thị kết nối chặt chẽ được dễ dàng hơn, giảm chi phí logistics đối với các tỉnh, thành phố phụ cận.
Hiện nay, chúng ta sẽ nhìn thấy xu hướng thoát trung tâm đang diễn ra. Thí dụ như TP Hồ Chí Minh khi bắt đầu mở cửa tập trung chủ yếu ngành dệt may ở các khu như Linh Trung, Tân Thuận. Nhưng dệt may hiện đang dạt ra khỏi TP Hồ Chí Minh và đi về các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Long An…, và từ các tỉnh này lại dạt về các địa phương xa hơn. Ở phía bắc, dệt may tập trung ở Hải Dương, Hưng Yên và đang dạt về các tỉnh xa hơn như Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An… Như vậy, để xúc tiến xu hướng đó, việc kết nối là rất quan trọng.

Quay lại quan điểm thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, đây là 1 thay đổi của chúng ta xuất phát từ quan điểm chiến lược. Có rất nhiều quan điểm cho rằng dịch bệnh này sẽ kéo dài dai dăng, và chiến lược “zero Covid” mà nhiều nước theo đuổi là rất khó khả thi. Vậy an toàn ở đây là như thế nào? Chính phủ đã thực hiện rất nhanh chóng và quyết liệt để có được vaccine tiêm cho người dân. Mặc dù chúng ta xuất phát rất chậm so với các nước khác nhưng hiện nay chúng ta đã vượt qua nhiều nước ASEAN và khu vực, với tỷ lệ tiêm đủ 2 mũi đạt trên 36% dân số, tiêm 1 mũi đạt 67%, như vậy chúng ta đã dần tiệm cận nhóm trên. Đây là một điều rất tốt khi chúng ta có độ phủ vaccine cao.

Thứ 2, chúng ta phải tăng cường năng lực của ngành y tế như tăng cường thuốc chữa, kế hoạch điều trị, sử dụng các thuốc đặc hiệu để làm cho người dân an tâm khi có bệnh sẽ được điều trị an toàn, bên cạnh áp dụng các biện pháp hạn chế để tránh lây lan nhanh, tức là phải tránh việc bùng phát dịch bệnh như đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh.

Còn linh hoạt ở đây là gì? Như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta áp dụng chiến lược rất hay là “hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung”, và giờ trong chiến lược chống Covid-19 cũng vậy, chúng ta nên ứng phó 1 cách linh hoạt là phân tán các nhóm lây lan lại. Nhưng khi đã phân tán và cô lập được các nhóm nhỏ lại, phải tập trung nguồn lực để dập dịch ngay, không cho lây lan nhanh ra các vùng khác. Đó là linh hoạt, và cũng được thể hiện ở chỗ chúng ta không gom tất cả vào 1 chỗ mà phân loại các nhóm dễ bị ảnh hưởng khác nhau để có các cách ứng xử khác nhau với các nhóm này, thí dụ như những nhóm người cao tuổi, có bệnh nền, trẻ em…

Linh họat còn đòi hỏi 1 yêu cầu cao hơn nữa, đó là bám sát diễn biến dịch bệnh để kịp thời những thay đổi trong ứng phó. Bài học trong việc ứng phó với chủng Delta cho thấy chúng ta đã bị bất ngờ và không kịp đối phó, trong khi với các chủng khác, các chiến lược ứng phó của chúng ta trước đây đều rất là phù hợp.

Thứ 3, dịch bệnh còn có thể kéo dài, muốn bảo đảm an toàn, chúng ta phải đặt trong dài hạn chứ không thể trước mắt, vì an toàn trước mắt sẽ ảnh hưởng đến lâu dài. Muốn có được an toàn trong dài hạn, chúng ta phải bảo đảm có đủ nguồn lực để duy trì được sự an toàn này. Nếu chúng ta dồn hết sức cho an toàn ngắn hạn, đến 1 lúc nào đó sẽ cạn kiệt nguồn lực và dịch bệnh thì vẫn còn, lúc đó sẽ không có gì là an toàn nữa khi chúng ta không còn nguồn lực.

Như vậy, an toàn phải trong tầm nhìn dài hạn, và muốn an toàn trong dài hạn thì quá trình chống dịch phải bảo đảm duy trì được nguồn lực của nền kinh tế, nguồn lực của người dân và nguồn lực của nhà nước, nhằm bảo đảm sự an toàn này được bền vững. Từ đó dẫn đến 1 quan điểm quá trình chống dịch phải chúng ta phải bảo đảm cho doanh nghiệp và nền kinh tế vẫn có thể hoạt động được, để nguồn lực từ ngân sách không bị cạn kiệt. Chúng ta phải xác định đây là cuộc chiến trường kỳ để có thể bảo đảm an toàn, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, làm sao cho tổn thất ít nhất, tỷ lệ tử vong, nhập viện ít nhất nhưng cũng tổn thất cho nền kinh tế ít nhất. Như vậy, cân bằng là điều kiện tiên quyết trong chiến lược hiện nay về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh.

10:30

Thưa PGS,TS Giang Thanh Long, dưới góc nhìn của một chuyên gia, ông nhận xét gì về các chính sách hỗ trợ của Chính phủ với người lao động và người sử dụng lao động để vượt qua những khó khăn trong dịch Covid-19 trong thời gian vừa qua, nhất là trong năm 2021 này, như các gói hỗ trợ theo Nghị quyết 42, Nghị quyết 68, Nghị quyết 116? Mong ông chia sẻ về kinh nghiệm của một số quốc gia khi triển khai các gói hỗ trợ trong đại dịch vừa qua?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

PGS, TS Giang Thanh Long: Xin cảm ơn nhà báo, cảm ơn Báo Nhân Dân, Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội đã mời tôi tham gia Tọa đàm rất có ý nghĩa hôm nay. Với tư cách là một chuyên gia nghiên cứu về an sinh xã hội, tôi cho rằng đây là cơ hội tốt để chúng tôi chuyển tải thông điệp trong quá trình chúng tôi nghiên cứu về chính sách an sinh xã hội.

Qua bài phát biểu của Thứ trưởng Lê Văn Thanh cũng như ý kiến của TS Vũ Minh Tiến, chúng ta thấy được sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và tất cả các Bộ, ban, ngành và chính quyền các tỉnh đối với người lao động trong quá trình chống dịch, đặc biệt là trong làn sóng Covid-19 lần thứ tư đến bây giờ, chúng ta đối mặt với nhiều khó khăn.

Về các chính sách, tôi đồng ý với TS Vũ Minh Tiến là kịp thời thiết thực và thuận lợi hơn cho người lao động để tiếp cận với chính sách này. Tuy nhiên, nhìn nhận dưới góc độ chuyên gia nghiên cứu và cũng là người khảo sát những vấn đề có liên quan đến chính sách thì ngoài những việc chúng ta đã làm được rồi thì có một vài vấn đề chúng ta cần chú ý.

Thứ nhất, mặc dù chúng ta đã tiếp cận nhiều người lao động như Thứ trưởng Lê Văn Thanh đã nói chúng ta có chú trọng rất nhiều đến người lao động ở khu vực chưa chính thức là những người không có hợp động lao động hoặc không tham gia bảo hiểm. Đây là nhóm đối tượng tổn thương nặng do đại dịch suốt hai năm qua đặc biệt trong đợt dịch lần thứ tư. Bởi lý do đơn giản khi chúng ta đóng cửa nền kinh tế, giãn cách xã hội thì lập tức những người trong khu vưc phí chính thức sẽ lập tức mất sinh kế. Khi mất sinh kế, họ không có nguồn bù đắp giống như những người được hưởng bảo hiểm xã hội như bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, đã có một nhóm đối tượng được tiếp cận với gói hỗ trợ này.

Tuy nhiên, theo báo cáo Tổng cục thống kê, quý II/2021, là quý chúng ta có tỷ lệ lao động phi chính thức nhiều nhất trong ba năm trở lại đây, với tỷ lệ 57,4%. Có thể thấy hàng chục triệu người lao động được coi là lao động phi chính thức. Như vậy, với con số ông Thanh nói vẫn còn một số lượng khá lớn lao động phi chính thức chưa tiếp cận hoặc tiếp cận chậm với chính sách mà chúng ta mong muốn. Bởi đây là nhóm đối tượng khó tiếp cận dẫn đến tình trạng một số chính quyền địa phương dùng các phương pháp rất thủ công là lên danh sách, xác nhận đối tượng, đáng lẽ chúng ta phải cập nhật ngày hôm nay để có thể "sống sót" được nhưng do quá trình làm thủ công như vậy chúng ta xác định sai đối tượng hoặc đối tượng được nhận chậm hơn so với dự kiến.

Hiện nay, chúng ta đang hỗ trợ mức độ nhận 1 lần trong 3 tháng. Các đối tượng này thông thường chỉ được nhận là 500 nghìn đồng/lần, một số địa phương có thể hỗ trợ đến 1 triệu đồng. Như vậy, khi giãn cách kéo dài, các hộ gia đình họ không phải là những người nghèo cũng không phải những người giàu, và không tham gia bất kỳ một chế độ bảo hiểm xã hội nào (trong thuật ngữ an sinh xã hội chúng tôi gọi là nhóm ở giữa mất tích), họ không nằm trong bất kỳ nhóm nào chính thức của bảo hiểm xã hội. Do đó khi họ mất sinh kế họ đối mặt với nhiều khó khăn, với mức hỗ trợ như hiện nay việc duy trì trong vòng ba, bốn tháng liền thì rất khó.

Khảo sát của Ban 4 Hội đồng cải cách hành chính quốc gia, cải cách doanh nghiệp, khảo sát với hơn 40 nghìn lao động bị thất nghiệp thì trên 55% nói rằng họ chỉ duy trì cuộc sống chúng ta trong vòng 1 tháng nếu tiếp tục mất việc như bây giờ. Điều đó có nghĩa là nếu tiếp tục mất việc thì họ cực kỳ khó khăn. Mức hỗ trợ mặc dù rất động viên nhưng có thể nói nếu đại dịch kéo dài thì họ đối mặt rất nhiều khó khăn với mức hỗ trợ như thế.

Kinh nghiệm quốc tế, theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế ngày 1/1/2021, có 209 quốc gia và khu vực trên thế giới đã thực hiện hơn 1.700 chính sách khác nhau. Việt Nam đóng góp khá nhiều trong số đó. Trong đó, có các chính sách như chúng ta đã nêu: Nghị quyết 42, Nghị quyết 68, Nghị quyết 116... Chúng ta có khoảng hơn 50 chính sách khác nhau của các tỉnh, thành phố và các Bộ, ngành mang tính chất đặc trưng cho các công việc, trong đó hỗ trợ một phần cho các lao động.

Các quốc gia khác cũng giống như Việt Nam là những quốc gia có tỷ lệ lao động phi chính thức lớn. Thí dụ như quốc gia gần với chúng ta là Thái Lan, tháng 4/2020 họ công bố gói hỗ trợ là 117 tỷ bath tương đương với khoảng 3 tỷ USD. Họ hỗ trợ tất cả những người lao động phi chính thức với mức 5.000 bath, tương đương với khoảng 125 USD. Họ làm như thế nào? Giống hệt như Việt Nam là số người lao động phi chính thức cực kỳ khó khăn trong việc xác định.

Thay vì để chính quyền địa phương, Bộ Lao động, hay bất kỳ một cục nào đó về vấn đề lao động phải đi xác định thì người lao động đăng ký để nhận những gói hỗ trợ đó vào các ngân hàng. Thí dụ như ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng chính sách hoặc trên các website do Bộ Lao động của Thái Lan đưa ra, thí dụ như những website chuyên đăng ký về lao động thất nghiệp, những đối tượng được hưởng sẽ đăng ký vào đó. Sau khi có thông tin thì chính quyền địa phương rất đơn giản để xác định. Sau khi công bố website chỉ sau 1 tuần có 28 triệu người đăng ký nhận. Sau khi sàng lọc chỉ còn 14 triệu người được hưởng còn lại 14 triệu người trùng với các chính sách khác. Như vậy thuận lợi rất nhiều, và quá trình này số hóa tất cả người lao động. Như vậy, nhờ Covid-19 có nhiều người lao động phi chính thức trước đây thì bây giờ được số hóa cực tốt cho Thái Lan.

Nước thứ hai là Indonesia, họ cũng công bố một gói hỗ trợ tương đương với khoảng hơn 600 triệu USD. Đây là quốc gia vạn đảo nên xác định lao động phi chính thức rất khó khăn. Họ cũng số hóa tất cả các nghiên cứu này, họ yêu cầu những người đăng ký đi vào các nhóm trong khu vực mình đang sống. Từ đó, người ta dễ dàng đăng ký và chính quyền địa phương xác định có đúng hay không thì sẽ dễ dàng xác nhận được đối tượng. Do đó, việc triển khai các chính sách ở Indonesia rất hiệu quả, chỉ trong vòng ba tháng họ đã cung cấp được hỗ trợ khoảng hơn 12 triệu người lao động và người sử dụng lao động với mức hỗ trợ khoảng 175 USD/1 người.

Tất cả quốc gia giống như chúng ta họ có một lực lượng lao động phi chính thức rất lớn. Đây là đối tượng bị tổn thương rất mạnh do dịch bệnh Covid-19 ở các nước này. Chính vì vậy, việc chúng ta vẫn đang nói việc số hóa tất cả các hoạt động trong đó có hoạt động đăng ký người lao động là cực kỳ quan trọng. Từ đó, chúng ta xác định được ai là người thực sự cần . Thứ hai đây là cơ hội tốt để chúng ta cho mọi người thấy rằng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là "tấm nệm" hỗ trợ cho người lao động trong quá trình gặp khó khăn. Đây là cơ hội tuyệt vời để cho mọi người thấy rằng ai chưa tham gia bảo hiểm xã hội thì nên tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội theo đúng kế hoạch của Nghị quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

10:38

Thưa ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, doanh nghiệp đã triển khai những giải pháp nào để hỗ trợ người lao động trong thời gian diễn ra dịch Covid-19 gần 2 năm nay, đặc biệt là đợt dịch Covid-19 lần thứ tư? Doanh nghiệp có nhận được những chính sách hỗ trợ gì từ các gói hỗ trợ của Chính phủ trong gần 2 năm qua? Quá trình triển khai các gói hỗ trợ có gì vướng mắc? Ông đánh giá ý nghĩa của các gói hỗ trợ trên như thế nào?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tập đoàn Dệt may Việt Nam:

Từ tháng 3/2020, khi bắt đầu có dịch bệnh ở Việt Nam, chúng tôi đã xác định đối với ngành dệt may chỉ có 2 tài sản rất quan trọng cho phát triển bền vững: nguồn lao động và vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Mất 2 tài sản này sẽ rất khó phục hồi và phát triển trở lại khi dịch bệnh qua đi. Cho nên, ngay từ đầu chính sách chỉ đạo xuyên suốt của Tập đoàn và các đơn vị là chăm lo và giữ gìn lực lượng lao động của mình, nhất là người lao động tay nghề cao.

Từ năm 2020, Tập đoàn đã triển khai cơ chế để giữ mối liên hệ giữa người quản lý lao động và lực lượng lao động, đồng thời xây dựng các tổ nhóm Covid trước đợt dịch lần thứ tư. Việc chuẩn bị trước đã thực sự phát huy hiệu quả trong đợt dịch lần thứ tư. Mỗi tổ nhóm được phân công theo địa bàn khu vực ở trọ của người lao động, tổ chức cho người lao động ở trọ cùng một chỗ thì làm cùng một tổ, một dây chuyền nhằm hạn chế số lượng người tiếp xúc. Việc này giúp bảo đảm nếu 1 người là F0 thì chỉ có 20 người là F1 chứ không phải là 300 hay 400 người. Đây là những hướng mà doanh nghiệp phải chuẩn bị từ ban đầu, tuy không phải là tiền nhưng khi xảy ra vấn đề về sức khỏe sẽ liên quan đến tiền.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đến các tổ để chuẩn bị các chương trình chăm lo, thí dụ như đi chợ giúp người lao động, chia các gói thực phẩm ở mức giá 100.000 hoặc 200.000 đồng tùy theo số người trong gia đình của người lao động. Hết giờ làm, người lao động có thể mua các gói thực phẩm ngay tại cửa nhà máy, nhà ăn tập thể. Việc này giúp người lao động hạn chế tần suất tiếp xúc ở những khu vực đông người, không định vị được.

Khi phải tổ chức sản xuất "3 tại chỗ", "1 cung đường 2 điểm đến", chúng tôi chú trọng tổ chức nghiêm túc hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Chúng tôi có những hệ thống ở Hòa Thọ, Đà Nẵng để bố trí cho khoảng 1.000 người ở trong thành phố "3 tại chỗ" với đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất, ăn, ở. Nếu doanh nghiệp làm tốt thì người lao động có thể yên tâm bảo đảm năng suất sản xuất. Thực tế mà nói, thì thường sau 1 tuần ở 3 tại chỗ thì năng suất lao động đi xuống, bởi người lao động đã quá bức bối, tẻ nhạt với môi trường chỉ có làm xong lên chỗ nghỉ ngơi. Vì vậy, tuy rất khó khăn và tốn kém, doanh nghiệp cần phải giải bài toán và thiết kế được một chương trình hoạt động để duy trì năng suất. Đây cũng là một lần thực nghiệm tâm lý của người lao động, bởi diễn biến tâm lý của người lao động diễn biến rất phức tạp khi thực hiện 3 tại chỗ.

Về các gói hỗ trợ của Chính phủ, chúng tôi đánh giá việc triển khai các gói hỗ trợ đã nhanh hơn, thực tế hơn. Trong năm 2020, với Nghị quyết 42 thì doanh nghiệp của Tập đoàn Dệt may hoàn toàn không nhận được gì. Do Nghị quyết dựa vào năng lực sản suất, nhưng doanh nghiệp không ngừng sản xuất ngày nào, thậm chí còn tổ chức sản xuất khẩu trang để xuất khẩu với số lượng rất lớn. Việc dừng sản xuất gây thiệt hại rất nhiều so với việc tổ chức sản xuất những mặt hàng rẻ, tuy không có lợi nhuận nhưng có thể bù đắp được một phần tiền lương chi trả cho người lao động.

Nhưng sang đến năm 2021, với Nghị quyết 68, Tập đoàn Dệt may đã nhận được khoảng 140 tỷ đồng, chiếm 60% hồ sơ đề nghị. Riêng Quyết định 116 về hỗ trợ tiền cho những người có đóng bảo hiểm thất nghiệp, doanh nghiệp đã nhận được 340 tỷ đồng/345 tỷ đồng, tương đương giải quyết 95% hồ sơ đề xuất. Việc này được triển khai nhanh và rất dễ do chỉ cần căn cứ theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Việc miễn giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho doanh nghiệp cũng hỗ trợ chúng tôi tiết kiệm 17 tỷ đồng trong 2 tháng thực hiện, và sẽ lên đến 100 tỷ đồng trong 12 tháng.

Năm nay, các doanh nghiệp đã tiếp cận được các gói hỗ trợ này nhanh và hiệu quả hơn, cách thức triển khai hợp lý hơn, giảm chi phí và thời gian để xét duyệt. Việc xây dựng cơ chế dựa trên bảo hiểm thất nghiệp giúp giải ngân dễ dàng hơn, bảo đảm công bằng khi chỉ có người lao động của những doanh nghiệp có đóng đầy đủ bảo hiểm thất nghiệp được nhận hỗ trợ. Việc này cũng tạo một môi trường mới khi người lao động có thể hiểu hơn khi lựa chọn đơn vị sử dụng lao động có tham gia đầy đủ các chính sách của Nhà nước, để khi gặp các rủi ro thì họ nhận được sự hỗ trợ đầy đủ hơn. Các doanh nghiệp làm ăn minh bạch rất mong thị trường lao động diễn biến theo hướng này, tránh việc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp không hoàn thành các trách nhiệm đầy đủ nhưng có lợi thế trong chi phí.

Do đó, cũng cần có sự tuyên truyền, giáo dục của ngành lao động và Công đoàn về định hướng của thị trường lao động, giúp bảo đảm quyền lợi của người lao động cũng như bảo vệ người sử dụng lao động.

10:40

Thưa PGS, TS Giang Thanh Long, thời gian qua, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đã phát huy vai trò quan trọng khi được sử dụng để hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động theo Nghị quyết 68; hoặc hỗ trợ trực tiếp cho người lao động và doanh nghiệp theo Nghị quyết 116. Ông nhận định như thế nào về vai trò của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian qua? Thời gian tới, cần có chính sách gì để bảo đảm Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp được quản lý và sử dụng an toàn, hiệu quả, minh bạch?

PGS, TS Giang Thanh Long:

Nhìn chung, có thể thấy rằng việc triển khai Nghị quyết 116 rất nhanh, đồng bộ và hiệu quả.

Tính đến ngày 15/11, đã có gần 11,65 triệu người lao động đã nhận được hỗ trợ từ Nghị quyết 116, trong đó có khoảng gần 11 triệu người đang tham gia trực tiếp, khoảng 700 nghìn người đang dừng và bảo lưu đóng bảo hiểm.

Đây là vấn đề rất tích cực trong việc hỗ trợ người lao động khi họ đang gặp khó khăn trong thời gian ngắn hạn. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ dài hơi hơn, thì chúng ta cần cân nhắc vấn đề liên quan tổng thể toàn bộ thị trường lao động.

Có thể nói rằng chính sách bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam tuân thủ rất chặt chẽ Công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã công bố trước đây. Ở vị thế là một quốc gia thu nhập trung bình, có thể nói Việt Nam thực hiện rất tốt Công ước ILO. Về việc thực hiện, về tổng thể, người lao động đã được đào tạo nghề thay đổi kỹ năng để có thể tìm kiếm việc làm mới trong thời gian thất nghiệp.

Tuy nhiên, ở đây đặt ra câu hỏi quan trọng là trong hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động, chúng ta đang đào tạo gì?

Các nghiên cứu trong thời gian gần đây chỉ ra rằng chúng ta đang đào tạo những gì chúng ta có, chứ chưa đào tạo những gì thị trường cần. Và vì lý do đó, người lao động vẫn được hỗ trợ đào tạo, nhưng họ vẫn khó tìm việc vì lý do kỹ năng vẫn chưa đáp ứng được phía cầu của lao động. Đây là một điều rất quan trọng cần lưu ý trong việc sử dụng hiệu quả Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp khi hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động.

Vấn đề tiếp theo là kết nối thị trường lao động như thế nào. Covid-19 đã làm bộc lộ những mặt yếu của thị trường lao động. Trong các khảo sát lao động việc làm hằng năm mà chúng tôi theo dõi từ năm 2010 đến nay, khi trả lời một trong những câu hỏi của chúng tôi: “Anh chị tìm kiếm việc làm từ đâu?” Thì câu trả lời phổ biến là: Từ bạn bè, người thân và gia đình.

Hiện nay, tỷ lệ người lao động tìm kiếm việc làm qua các trung tâm giới thiệu việc làm chính thức đã tăng trong thời gian vừa qua, nhưng vẫn còn rất hạn chế. Việc tìm kiếm việc làm qua người thân, gia đình, bạn bè là những chỗ tin tưởng nhưng không phải lúc nào cũng tìm được công ty tốt có đầy đủ các chế độ. Việc các công ty tham gia đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế sẽ bảo đảm cho người lao động về lâu dài. Và cú sốc Covid-19 cho thấy, những người đã tham gia bảo hiểm xã hội là những người đã được bù đắp một phần những đóng góp của mình trước đây thông qua bảo hiểm thất nghiệp hoặc các hỗ trợ khác.

Nói về vấn đề sử dụng an toàn, minh bạch, hiệu quả Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, thì tôi cho rằng không có gì tốt hơn là phục hồi kinh tế. Vì chỉ có phục hồi kinh tế thì chúng ta mới có thể giảm số người thất nghiệp, giảm chi tiêu Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp và gia tăng số người đóng bảo hiểm thất nghiệp để bù đắp cho Quỹ.

Tôi cho rằng, Nghị quyết 116 cho phép doanh nghiệp giảm đóng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp từ 1% xuống 0% tới hết tháng 9/2022 là rất hợp lý và hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp. Nhìn dài hơi hơn, việc khuyến khích người lao động tham gia chính sách bảo hiểm thất nghiệp là một điều cực kỳ quan trọng. Càng nhiều người tham gia quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chúng ta càng có nguồn lực để chia sẻ rủi ro với những người mất việc làm, làm tấm nệm để đỡ họ chống lại những cú sốc tương tự như cú sốc do Covid-19 gây ra vừa rồi.

Điều quan trọng hơn, từ việc những người được hưởng hỗ trợ từ Nghị quyết 116 đã có đầy đủ thông tin trong cơ sở dữ liệu và được hỗ trợ rất nhanh chóng, có thể thấy, khi ta số hóa công tác quản lý lao động thì chúng ta xử lý giải quyết chính sách rất nhanh, giảm chi phí rà soát. Đây cũng là yếu tố giúp chúng ta sử dụng hiệu quả các quỹ hỗ trợ cho người lao động.

10:45

Xin hỏi ông Tào Bằng Huy, Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội): Hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động trong dịch Covid-19 cũng là một chính sách quan trọng được triển khai trong thời gian qua. Ông có thể chia sẻ một số thông tin về nội dung này? Theo ông, cần cơ chế nào để khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong việc thu hút thanh niên và người lao động chủ động tham gia đào tạo nâng cao kỹ năng nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, để đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Tào Bằng Huy, Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội):

Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động được quy định tại Nghị quyết 68 của Chính phủ và Quyết định 23 của Thủ tướng Chính phủ. Quy định về điều kiện và trình tự thủ tục thực hiện chính sách này đơn giản rất nhiều so với quy định tại Luật Việc làm và Nghị định 28/2015/NĐ-CP. Đặc biệt, chính sách này có thời hạn thực hiện dài hơn, được thiết kế dài hạn (theo quy định được thực hiện đến cuối tháng 6 năm 2022).

Đến nay, cơ quan bảo hiểm xã hội đã xác nhận cho 3.339 lao động tại 31 đơn vị đề nghị hỗ trợ đào tạo nghề. Tại 5 tỉnh, thành phố, đã có 7 đơn vị sử dụng lao động được phê duyệt hỗ trợ 2,4 tỷ đồng để đào tạo nghề, duy trì việc làm cho 915 người lao động.

Tuy nhiên, chính sách này thực hiện chậm là do thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch bệnh nên nhiều doanh nghiệp phải dừng hoạt động, hoặc hoạt động cầm chừng, nên chưa có nhu cầu đào tạo, hoặc chưa có phương án bố trí lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng cho người lao động.

Qua khảo sát, một số địa phương cho rằng, khi dịch bệnh được kiểm soát, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình thường, sẽ có nhiều doanh nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất - kinh doanh để đáp ứng yêu cầu trong trạng thái bình thường mới và có nhu cầu đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng cho người lao động phù hợp với hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Đã có một số địa phương mạnh dạn đề nghị cho kéo dài thực hiện chính sách này đến hết năm 2022. Về việc này chúng tôi cũng đang nghiên cứu, xem hiệu quả đến 30/6/2022 để có đề xuất phù hợp.

Về cơ chế khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thu hút người lao động tích cực, chủ động tham gia đào tạo nâng cao kỹ năng nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động sau đại dịch, tôi thấy có một số điểm đáng quan tâm.

Ngày 30/8/2021, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 1446/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình “Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó có các chính sách, giải pháp để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thu hút người lao động, thanh niên chủ động tham gia đào tạo để nâng cao tay nghề, chuyển đổi việc làm đáp ứng với nhu cầu của thị trường lao động. Trong đó các các giải pháp rất sát thực tiễn, như: Xác định ngành, nghề đào tạo, kỹ năng nghề và mô hình đào tạo mới phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động; đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân; phối hợp với doanh nghiệp để gắn đào tạo lý thuyết với thực hành tại doanh nghiệp, đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp.

Trước mắt, để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các doanh nghiêp sau khi phục hồi sản xuất - kinh doanh sau khi kiểm soát được dịch bênh, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ/kỹ năng nghề cho người lao động để thích ứng với điều kiện sản xuất mới, đào tạo phổ cập nghề cho người lao động có kỹ năng thấp, đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Do đó, trong thời gian tới có 2 việc cần làm ngay. Một là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần chủ động phối hợp với doanh nghiệp để xây dựng và triển khai phương án đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp. Hai là phối hợp các trung tâm dịch vụ việc làm để tuyên truyền, phổ biến chính sách hỗ trợ đào tạo cũng như tổ chức thực hiện đào tạo mới, đào tạo nâng cao trình độ và đào tạo chuyển đổi nghề cho người lao động.

Trong chính sách hỗ trợ đào tạo này thì có hỗ trợ đào tạo đối với đối tượng là người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp. Vừa qua có số người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp thất nghiệp, hiện nay khi chưa quay trở lại làm việc thì đây chính là nhóm đối tượng mà các cơ sở giáo dục đào tạo và các doanh nghiệp, người sử dụng lao động cần tư vấn, giới thiệu cho người lao động tham gia đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp để chuẩn bị cho việc làm trong tương lai.

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

10:51

Thưa ông, đầu năm 2021, Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 176 về chương trình “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030”( hay Chương trình 176). Xin ông có thể cho biết về công tác triển khai chương trình trong thời gian vừa qua? Có hay không những khó khăn trong việc triển khai, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19?

Ông Tào Bằng Huy, Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội):

Ngày 5/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030, với mục tiêu tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường lao động, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, bảo đảm kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động phù hợp với điều kiện của từng địa phương, và cụ thể hóa các mục tiêu cũng như giải pháp trong Chương trình 176 để phát triển thị trường lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành các quyết định, kế hoạch để cụ thể, và giao cho các đơn vị chức năng của Bộ triển khai thực hiện chương trình.

Sự bùng phát của dịch Covid-19 ở nước ta trong nửa đầu năm 2021 đã ảnh hưởng rất xấu đến thị trường lao động, gây khó khăn và thách thức lớn trong giai đoạn đầu triển khai Chương trình. Cụ thể như: việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển cung, cầu lao động, hỗ trợ phát triển hệ thống thông tin thị trường lao đông và tổ chức các hoạt động giao dịch việc làm kết nối cung-cầu lao động…

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tiếp tục chỉ đạo các địa phương nỗ lực thực hiện việc phát triển thị trường lao động. Bộ cũng đang tập trung rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để có những báo cáo, định hướng, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm và các văn bản quy phạm pháp luật về thị trường lao động; thực hiện các chính sách vay vốn, cũng như các dự án khác. Đặc biệt, chúng tôi đang nghiên cứu xây dựng đề án cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, việc làm kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu dân cư, cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp; tổ chức các hoạt động phân tích, dự báo thị trường lao động để kịp thời cung cấp thông tin định hướng cho các chủ thể tham gia thị trường lao động.

Trong đợt dịch vừa rồi, chúng tôi nhận thấy rằng việc thu thập, nắm bắt thông tin thị trường lao động, cũng như tình hình lao động, việc làm, cung-cầu lao động là một việc rất cần thiết phải triển khai. Ngoài ra, Bộ cũng đầu tư nâng cao năng lực hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm để giúp các trung tâm thực hiện các hoạt động giao dịch việc làm. Hiện nay chúng tôi cũng đang đề xuất các tỉnh chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trung tâm dịch vụ việc làm kết nối liên thông, thu thập, nắm chắc thông tin về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cũng như nhu cầu, nguyện vọng của người lao động để kết nối liên thông giữa các vùng với nhau, qua đó tổ chức các phiên giao dịch việc làm trực tuyến để kết nối cung-cầu lao động hiệu quả.

10:55

Thưa bà Nguyễn Thị Thu Hiền, bà có thể chia sẻ tình hình thị trường lao động - việc làm tại Đồng Nai hiện nay như thế nào?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Giám đốc Sở Lao động - thương binh và xã hội tỉnh Đồng Nai:

Tỉnh Đồng Nai hiện có hơn 38.000 doanh nghiệp, trong đó hơn 1.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động trong 32 khu công nghiệp tập trung của tỉnh, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện sử dụng khoảng 1,2 triệu lao động, trong đó, tại các khu công nghiệp tập trung khoảng 600.000 lao động.

Trong và sau đợt dịch lần thứ tư vừa qua đã diễn ra một đợt dịch chuyển lao động lớn nhất từ trước tới nay. Số lao động di chuyển từ Đồng Nai về các tỉnh ước khoảng 50.000 - 60.000 người, chủ yếu tập trung về các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên.

Theo báo cáo chưa đầy đủ từ các doanh nghiệp, hiện các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có nhu cầu sử dụng khoảng 35.000 - 40.000 lao động, các doanh nghiệp hiện khá khó khăn để có thể tuyển dụng đáp ứng nhu cầu trên, đặc biệt trong giai đoạn cuối năm, do tâm lý người lao động hiện còn e ngại quay trở lại làm việc do tình hình dịch bệnh chưa được khống chế hoàn toàn.

Trước tình hình trên, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 13415/KH-UBND ngày 1/11/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phối hợp hỗ trợ đón người lao động từ các tỉnh, thành phố có nhu cầu đến, trở lại tỉnh Đồng Nai làm việc được hưởng ưu đãi các chính sách sau. Đó là:

- Được ưu tiên tiêm vaccine cho những đối tượng chưa tiêm mũi 1, cũng như được đẩy nhanh tiến độ tiêm mũi 2 nhanh chóng, an toàn, bảo đảm điều kiện khi trở lại các doanh nghiệp làm việc.

- Trường hợp người lao động phải thuê phòng trọ mà chưa nhận hỗ trợ theo Quyết định số 4346/QĐ-UBND ngày 14/10/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai trước khi về quê thì sẽ được hỗ trợ 300 nghìn đồng/người/lần (chưa bao gồm vợ, chồng, con nếu ở cùng phòng trọ).

Theo bà, làm thế nào để thu hút lao động quay trở lại thị trường lao động Đồng Nai sau đại dịch?

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Giám đốc Sở Lao động - thương binh và xã hội tỉnh Đồng Nai:

Để kết nối thông tin về thị trường lao động việc làm, giúp người lao động tìm được việc làm tốt trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, cần tăng cường tổ chức các sàn giao dịch việc làm trực tiếp hoặc trực tuyến để kết nối việc làm giữa doanh nghiệp và lao động. Đẩy mạnh hoạt động Sàn Giao dịch việc làm trực tuyến thông qua ứng dụng công nghệ.

Các đơn vị chức năng cần chủ động rà soát, nắm bắt thông tin về nguồn lao động thất nghiệp địa phương, nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Từ đó, xây dựng phương án hỗ trợ kết nối việc làm giữa lao động và doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng.

Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh/thành phố cần có sự kết nối, nắm bắt thông tin lao động có nhu cầu trở lại Đồng Nai làm việc để có phương án hỗ trợ và bảo đảm an toàn cho người lao động trở lại Đồng Nai làm việc và lao động Đồng Nai đến làm việc tại các tỉnh, thành phố khác.

Đồng Nai đã triển khai các gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116 như thế nào? Kết quả bước đầu ghi nhận ra sao, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai:

Nhìn chung, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các sở, ngành; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố triển khai thực hiện kịp thời các chế độ, chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn

Tính đến ngày 14/11/2021, toàn tỉnh đã hỗ trợ hơn 317.000 lao động trong các doanh nghiệp chế độ tạm hoãn hợp đồng lao động, ngừng việc không hưởng lương với số tiền khoảng 760 tỷ đồng. Hỗ trợ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) là 746.103 người, với số tiền hơn 1.119 tỷ đồng.

Hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết 116/NQ-CP cho 587.597 người (đạt tỷ lệ 72,5% kế hoạch) với số tiền đã được phê duyệt là 1.418,74 tỷ đồng (đạt 69% kế hoạch). Hiện các địa phương vẫn đang tích cực triển khai các chính sách hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Ngoài chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 68 của Chính phủ, ngày 14/10/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định 4346/QĐ-UBND hỗ trợ 6 nhóm đối tượng khó khăn gồm người có công với cách mạng; đối tượng bảo trợ xã hội; hộ nghèo, hộ cận nghèo (1,5 triệu đồng/người/hộ); người dân đang thuê phòng trọ (300 nghìn đồng/người); người thuê phòng trọ phải thực hiện giãn cách xã hội trong các khu cách ly tạm thời và người lang thang trong các khu cách ly tạm thời (120 nghìn đồng/người/ngày).

Dự kiến có khoảng 618.121 người được hưởng chính sách hỗ trợ từ gói an sinh xã hội này với kinh phí hơn 296 tỷ đồng. Hiện nay, các địa phương đang chi hỗ trợ cho các đối tượng.

Bà có kiến nghị gì với các cơ quan liên quan để hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động vượt qua những khó khăn trong dịch Covid-19 hiện nay. Qua đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trở lại sản xuất?

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai:

Theo thống kê nhanh tại hơn 300 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, hiện tại, các doanh nghiệp cần khoảng 35.000 - 40.000 lao động để khôi phục hoạt động sản xuất và đáp ứng các đơn hàng, bù đắp lại thời gian hơn 3 tháng doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Những ngành nghề có nhu cầu sử dụng lao động lớn là: dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử. Một số doanh nghiệp có nhu cầu lao động lớn như: Công ty CP Taekwang Vina cần 5.000 lao động; Công ty Chang Shin Việt Nam cần 2.000 lao động; Công ty Longwell cần 3.300 lao động; Công ty Friwo Việt Nam cần 500 lao động…

Như vậy, tình trạng khan hiếm lao động (chủ yếu lao động phổ thông) số lượng lớn sẽ tiếp diễn trong quý IV/2021 và quý I/2022 càng làm cho quá trình khôi phục hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn.

Để nhanh chóng khôi phục sản xuất của doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn thiếu hụt lao động do dịch Covid-19, địa phương xin kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo Chính phủ xin cơ chế đặc biệt cho phép doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận thời gian làm thêm giờ vượt quá quy định tại Điều 107 Bộ luật Lao động.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sớm xây dựng chương trình kết nối thị trường lao động giữa các vùng, các địa phương để các địa phương, doanh nghiệp kết nối nhu cầu thị trường lao động.

11:00

Thưa TS Nguyễn Tú Anh, theo ông, chúng ta nên có những chính sách hỗ trợ như thế nào để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất - kinh doanh?

TS Nguyễn Tú Anh:

Ở đây tôi xin có một số ý kiến như này. Về việc hỗ trợ, tốt nhất nên hỗ trợ đồng đều tránh méo mó thị trường. Tuy nhiên, nguồn lực có hạn, nên phải kết hợp vừa hỗ trợ mang tính chất phổ quát vừa mang tính chất trọng điểm. Đối với chính sách hỗ trợ, chúng ta phải kết hợp hai chính sách tài khóa và tiền tệ, kèm theo các chính sách về an sinh xã hội.

Đối với hỗ trợ phổ quát, ở đây, chính sách tiền tệ đóng vai trò then chốt bằng cách làm sao giảm được chi phí cho doanh nghiệp, giảm được chi phí vốn cho doanh nghiệp trong thời gian qua, tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp đặc biệt là đối với những doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi và bứt phá, như ngành dệt may chẳng hạn, hiện nay đang chiếm lĩnh thị trường rất lớn nếu có các chính sách hỗ trợ để tăng nhanh và tiếp cận chiếm lĩnh được thị trường thì rất tốt.

Thứ hai, hỗ trợ phổ quát ở đây là các chính sách để giảm chi phí sản xuất thí dụ như chi phí về xăng, dầu, điện, nước, chi phí về logistics và giảm các rào cản lưu thông hàng hóa. Những chi phi này khi giảm không đặt biến động thị trường thì ảnh hưởng đến ngân sách. Đây chính là một số ảnh hưởng mà phải tính đến đó là các chi phí hỗ trợ cho chính sách. Đối với hỗ trợ này thì mang tính chất phổ quát.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tập trung vào một số đối tượng cần lựa chọn với các chính sách cụ thể. Những đối tượng lựa chọn cần được hỗ trợ tập trung đúng lúc họ đang rất cần thiết. Ở đây, một trong những điểm tập trung cho các cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề thì cái khó là lựa chọn như thế nào, doanh nghiệp như thế nào cần hỗ trợ cho thấp nhất. Chúng ta thấy rằng, trong quá trình vận động của nền kinh tế, có những doanh nghiệp trong quá trình vận chuyển họ bị đào thải ra khỏi hệ thống một cách bình thường bởi với xu thế phát triển công nghệ mới, kinh doanh mới không phù hợp với công nghệ hiện nay. Đối với những doanh nghiệp do Covid-19, hay do quá trình vận động bị đào thải thì các chuyên gia quốc tế và chúng tôi cũng đồng ý là không nên hỗ trợ nguồn vốn mà nên hỗ trợ cho họ để khởi nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp khác tốt hơn. Còn đối với những doanh nghiệp bị ảnh hưởng mạnh bởi đại dịch, trước đại dịch họ hoạt động tốt, chứng tỏ họ đang trong quá trình kinh doanh tốt, vì đại dịch nên họ bị ảnh hưởng nhiều thì những doanh nghiệp này cần hỗ trợ để họ vực dậy sản xuất - kinh doanh.

Hiện nay, Chính phủ đang nghiên cứu chính sách chuyển lỗ về năm 2019. Phương án chuyển lỗ là chính sách rất tốt để định danh. Thí dụ như năm 2019 họ sản xuất có lãi, họ đóng thuế thu nhập doanh nghiệp với khoản lãi đó. Năm 2021 họ lỗ bây giờ chuyển lỗ về năm 2019, như vậy khoản lãi của năm 2019 giảm xuống, như vậy toàn bộ khoản lãi của 2019 chuyển về là không lãi nữa. Do đó, khoản nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được Nhà nước chuyển lại. Như vậy, hỗ trợ này dựa trên năng lực. Đây là cách để dễ dàng để lựa chọn doanh nghiệp tốt đang bị ảnh hưởng mạnh và có cách như thế để hỗ trợ.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể nhận các gói hỗ trợ gián tiếp thông qua các gói hỗ trợ về người lao động, giảm thuế, miễn thuế, giãn thuế, hoãn thuế phí, mọi người cũng có thể việc miễn thuế, giãn thuế cũng là khoản hỗ trợ từ ngân sách, gọi theo thuật ngữ kinh tế học là tín dụng về đầu tư. Tức là nếu đáng lẽ trong quý này anh phải nộp cho ngân sách 1 tỷ tiền thuế phí các kiểu thì tôi hoãn cho 6 tháng thì rõ ràng ngân sách hỗ trợ đây là ngân sách cấp cho doanh nghiệp với lãi suất bằng 0% trong vòng 6 tháng. Đây là hỗ trợ gián tiếp trong vòng 6 tháng. Tất cả các chính sách phối hợp một cách đồng đều chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ.

Bên cạnh đó, cần phả đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Giải ngân đầu tư công là một trong những công cụ rất quan trọng trong thời gian hiện nay để tăng nhu cầu về vốn tăng nhu cầu việc làm và tăng vòng quay tiền tệ trong nền kinh tế. Khi tăng giải ngân đầu tư công, ngoài việc tăng vốn tăng vòng quay tiền tệ còn đưa nhanh được các công trình đầu tư công trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Khi đưa nhanh được các công trình ấy vào thì giá trị gia tăng nền kinh tế sẽ tăng nhanh và giảm phí logictis và các chi phí khác cho doanh nghiệp. Đây là những giải pháp đột phá. Nếu vậy, phối hợp chính sách tài khóa tiền tệ, chính sách đầu tư công, chính sách an sinh xã hội. Trong đó, chúng ta xác định rõ những chính sách mang tính chất phổ quát mang tính chất lựa chọn thì các hướng tiếp cận như thế rất rõ ràng.

11:15

Thưa ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp hiện nay như thế nào, liệu có xảy ra tình trạng thiếu lao động từ nay đến cuối năm và quý 1 năm 2022? Ông có kiến nghị gì với các cơ quan liên quan để hỗ trợ người sử dụng lao động vượt qua những khó khăn trong dịch Covid-19 hiện nay nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trở lại sản xuất?

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Ông Lê Tiến Trường:

Trước hết, như tôi nói, dệt may luôn có nhu cầu tuyển dụng bởi 2 lý do:

Thứ nhất, bản thân dệt may là một ngành đang tăng trưởng. Dù có tự động hóa, hiện đại hóa thì hiện nay muốn tăng trưởng được 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu thì cần tạo thêm 50 nghìn việc làm mới. Mỗi năm chúng ta đang tăng trưởng 5-6 tỷ USD thêm cho xuất khẩu dệt may. Bởi vậy luôn có nhu cầu về tuyển dụng.

Thứ hai, nhu cầu tuyển dụng do sự dịch chuyển của địa điểm sản xuất từ các khu vực gần đô thị lớn ra các khu vực nông thôn hơn. Nên trong quá trình dịch chuyển này tạo ra nhu cầu mới do không phải lao động nào cũng đi theo được nhà máy khi di rời ra khỏi trung tâm đô thị.

Đối với doanh nghiệp dệt may, nhu cầu tuyển dụng lao động luôn luôn có dù có Covid-19 hay không, bao giờ nó cũng là yếu tố quan trọng để quyết định kinh doanh thành công của ngành thông dụng lao động như dệt may hay da giày.

Lao động là một trong những điều kiện cần để có sản xuất - kinh doanh hiệu quả.

Trong giai đoạn Covid-19, có sự dịch chuyển lao động đã trở về các địa phương từ các khu công nghiệp, theo tôi, bên cạnh phục hồi thị trường lao động theo hướng mở cửa tuyển dụng trở lại ở các đơn vị thì cần có sự can thiệp của “bàn tay” quản lý nhà nước, quản lý lao động ở các địa phương để chúng ta không mất cơ hội là người lao động đã trở về các địa phương tái định vị ở các địa phương, gọi là ly nông bất ly hương nhiều hơn.

Bởi vì chỉ cần 6 tháng đến 1 năm nữa lại tuyển dụng tự do, chúng ta sẽ tốn rất nhiều công sức trong việc định hướng lại phân bố lao động. Nên chăng thời điểm này ngành lao động ở các địa phương cần thống kê một cách chính xác số lượng lao động tại địa phương đã trở về từ các khu công nghiệp và tổ chức hoạt động giới thiệu tuyển dụng trên địa bàn để người lao động không phải thực hiện di cư một lần nữa.

Đây sẽ là yếu tố bền vững lâu dài bởi sau đại dịch chỉ có khoảng thời gian 6 tháng. Nếu hết 6 tháng tới người lao động đã về quê không kiếm được việc làm, không có thu nhập khác để thay đổi thì con đường duy nhất của họ là phải trở lại các khu công nghiệp để thực hiện tuyển dụng lao động. Trong khi những chính sách liên quan đến nhà ở, ký túc xá là những hệ chính sách lâu dài mới có được thì chắc chắn khi di cư trở lại, người lao động vẫn phải ở các xóm trọ, ở tự do, vẫn phải tiếp tục trong một vòng xoáy thuộc nhóm lao động hết sức nhạy cảm nếu có những diễn biến về thiên tai, dịch bệnh như Covid-19.

Do vậy, đối với chúng tôi, luôn khẳng định có nhu cầu tuyển dụng lao động. Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn có sự phối hợp giữa quản lý nhà nước về lao động trên địa bàn và doanh nghiệp để làm sao tái bố trí lao động tại chỗ tối đa, sau đó chúng ta sẽ có dịch chuyển giữa các khu vực, khu công nghiệp cho hợp lý hơn, chứ không phải là sự phục hồi thị trường lao động một cách tự phát, ai thiếu người thì đăng tuyển, cạnh tranh nhau bằng cách trả thêm tiền lương hoặc hỗ trợ thêm một vài chi phí để quay lại.

Cá nhân tôi cho rằng hỗ trợ chi phí để quay lại có thể với cá nhân người lao động là tốt, nhưng xét trên bình diện quy mô lớn, về lâu dài thì việc này chưa chắc đã tốt.

Chúng ta nên tận dụng cơ hội của tái bố trí lao động sau Covid-19 do dịch chuyển để thực hiện luôn “bàn tay” can thiệp của Nhà nước trong định vị lại thị trường lao động phù hợp hơn trên cơ sở phù hợp với quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cả nước với các vùng công nghiệp ở các khu công nghiệp khác nhau.

Từ góc độ của doanh nghiệp, chúng tôi mong muốn Nghị quyết 128 được thực hiện nghiêm túc ở tất cả các địa phương vì đây là tiền đề cơ bản của đi lại ổn định, sản xuất ổn định, lưu thông ổn định.

Hiện nay đã là tháng 11, giai đoạn đang xây dựng toàn bộ kế hoạch sản xuất - kinh doanh cho năm 2022. Do đó, nên có sự chuẩn bị hướng dẫn để doanh nghiệp biết các yếu tố thuộc về phòng ngừa dịch bệnh cho năm 2022 để chuẩn bị.

Thí dụ, có cần tiêm mũi vaccine ngừa Covid-19 thứ ba hay không. Mũi tiêm thứ ba có còn trong diện được hỗ trợ miễn phí của Nhà nước hay không hay trở thành một chi phí y tế thông thường và bảo hiểm y tế có chi trả hay không hay doanh nghiệp phải lo. Đây là vấn đề đầu vào cho doanh nghiệp phải tính toán trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh của 2022.

Hiện chúng tôi tính toán, nếu tiêm thêm 1 mũi thứ ba trong năm 2022 cho người lao động trong ngành dệt may phải chi khoảng 120 tỷ đồng. Đây là một chi phí cần phải có sự chuẩn bị. Vậy đã đến cuối tháng 11 rồi, để bảo đảm sự ổn định của thị trường lao động chúng ta nên có hướng dẫn chính sách cho sớm. Nếu không, sang 2022 mới thông báo cần thêm mũi tiêm thứ 3 mới được đi làm mà người lao động chưa được tiêm mũi 3 thì lại đứt gãy.

Do đó, tôi cho rằng, đây không phải là thời điểm nói phục hồi thị trường lao động bằng việc tuyển dụng được lao động trở lại doanh nghiệp mà quan trọng hơn là phục hồi thị trường lao động bằng hình ảnh doanh nghiệp hoạt động ổn định, bền vững thì lúc đấy thị trường lao động tự khắc có sự ổn định và tạo việc làm tốt hơn.

11:20

Thưa TS Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương, theo ông, chương trình phục hồi thị trường lao động trong tổng thể Đề án chương trình phục hồi kinh tế - xã hội của Chính phủ cần huy động nguồn lực như thế nào để bảo đảm triển khai hiệu quả trong thực tế?

TS Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương:

Chương trình phục hồi cũng đã có nhiều chuyên gia nói đến, đặc biệt là Thứ trưởng Lê Văn Thanh cũng đã nhắc tới nhiều. Ở đây, tôi chỉ có một số bình luận. Để phục hồi thị trường lao động, chúng ta phải bảo đảm 3 mục tiêu:

Thứ nhất là người lao động yên tâm trở lại làm việc, điều này Thứ trưởng Lê Văn Thanh đã nói đến rất kỹ.

Tuy nhiên, thứ hai là phải làm sao gói hỗ trợ không làm cho người lao động ở lại nhà. Nhìn kinh nghiệm ở châu Âu, Mỹ có những gói hỗ trợ rất hào phóng, chính vì sự hào phóng đó mà rất khó để người lao động quay trở lại làm việc vì đã nhận hỗ trợ của Chính phủ.

Thứ ba là sử dụng nguồn lực cho hiệu quả.

Để thực hiện mục tiêu thứ hai, có lẽ cần phải gắn gói hỗ trợ với việc khuyến khích họ trở lại làm việc, thí dụ như tăng thêm tháng lương cho tháng đầu tiên khi họ quay lại, hỗ trợ chi phí đi lại. Không nên hỗ trợ cào bằng, trừ hỗ trợ cho những hộ gia đình nghèo.

Ở đây kèm theo hỗ trợ người lao động cho họ an tâm, cần tính đến tạo điều kiện mở lại trường học cho con em họ đến trường.

Mục tiêu thứ ba liên quan đến định hướng và chi phí của gói hỗ trợ như GS Giang Thanh Long đã nói, để định danh người cần hỗ trợ, ở đây do nguồn lực có hạn cho nên phải đánh giá đúng ai cần hỗ trợ. Việc này rất khó, và số hóa cũng là việc cần phải làm để đẩy nhanh việc này.

Về lâu dài, cần định hướng quy hoạch lâu dài các khu nhà ở gắn với người lao động, bảo đảm vệ sinh an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống của công nhân.

Việc nữa cần làm là chính thức hóa các khu vực phi chính thức. Việc này trước đại dịch đã làm, nhưng qua đại dịch chúng ta mới thấy nhu cầu của khu vực phi chính thức rất cao. Vì chỉ khi chính thức hóa, chúng ta mới nhận diện được người lao động đang ở đâu, nhu cầu như thế nào, có tham gia các chương trình an sinh xã hội không, Nhà nước cần hỗ trợ họ trong các trường hợp như thế nào.

Quay lại vấn đề chính là nguồn lực ở đâu. Chúng ta rất may mắn, là từ năm 2011 đến nay, Đảng và Chính phủ đã đặt mục tiêu cao nhất là ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cho nên trước khi đại dịch xảy ra năm 2019, chúng ta đã có được một nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc. Điều này thể hiện ở việc thâm hụt ngân sách ở mức kiểm soát khá tốt, dự trữ ngoại hối tăng ở mức cao, lãi suất bắt đầu trở về ổn định và kiểm soát được lạm phát dưới mức 4% trong suốt 5 năm liền. Điều này thể hiện ra bên ngoài là chi phí vay vốn trên thị trường quốc tế của Việt Nam là bảo đảm, bởi vì chi phí vay vốn là ngoài chi phí với lãi suất lõi thường kèm theo một chi phí đền bù rủi ro, thì chi phí rủi ro của Việt Nam được đánh giá là thấp.

Từ việc tăng dự trữ ngoại hối, ổn định lãi suất, dẫn đến việc đồng tiền Việt Nam lên giá. Từ khi đổi mới đến nay, chúng ta luôn có xu hướng tiền Việt Nam mất giá, tức là tỷ giá luôn tăng, nhưng gần đây lại có xu hướng đi xuống, điều này phản ánh sức mạnh của nền kinh tế.

Từ đó, cho thấy chúng ta có rất nhiều lựa chọn cho nguồn lực. Thứ nhất là vay trong nước bằng Trái phiếu Chính phủ hiện nay với kỳ hạn 10 năm có lãi suất chỉ còn 2,15%/năm, kỳ hạn 5 năm có 0,82 % rất thấp. Đó là hướng có thể thực hiện luôn, là vay trong nước từ công trái hay trái phiếu…

Ngoài ra, có một lựa chọn thứ hai là vay từ các tổ chức quốc tế nếu cần về ngoại tệ. IMF hay ADB luôn sẵn lòng cho vay nếu cần. Nhưng hiện nay chúng ta có một vị thế rất lớn, không bị khó về ngoại hối, về khoản vay trong nước. Như vậy tôi cho rằng việc lựa chọn vay quốc tế, theo quan điểm cá nhân của tôi là chưa cần thiết hiện nay.

Tất cả các phương án hiện nay cần cân nhắc chọn ra phương án tối ưu, để làm sao sử dụng nguồn lực với chi phí rẻ nhất, nhưng đồng thời việc huy động nguồn lực đó không gây cản trở cho nền kinh tế trong những năm tới, Thí dụ như nếu vay một số lượng quá lớn thì áp lực trả nợ lên ngân sách rất lớn, sẽ hút kiệt nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng. Muốn trả được nợ thì phải tăng trưởng kinh tế, muốn tăng trưởng kinh tế thì nguồn chi ngân sách phải cao, phải hỗ trợ. Vì vậy chuyện cân nhắc ở đây là mức độ như thế nào.

Trong báo cáo của chúng tôi có đánh giá một mô hình định lượng, là nếu chúng ta tăng nợ công trong mức 3% GDP như lúc này, thì trong vòng 4-5 năm tới, tỷ lệ nợ công có thể quay lại đúng mức như hiện nay. Tăng nợ công nghĩa là có thể tăng nguồn lực vay, tăng khoản vay thì chúng ta dùng nguồn lực đó đẩy mạnh vào đầu tư công, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp, từ đó tăng nguồn thu ngân sách, GDP tăng, và theo đó, khoản vay trên tổng GDP sẽ giảm dần và quay về mức như hiện nay. Như vậy, với các tính toán của chúng ta, có thể tự tin rằng ít nhất với mức khoảng 3% GDP, chúng ta có thể bảo đảm dần dần về mặt trung hạn và dài hạn, kinh tế vĩ mô có thể trở lại quỹ đạo ổn định.

Tuy nhiên, một trong những nguồn lực ổn định hơn và có tính chất tổng thể hơn, quan trọng nhất là hạ lãi suất cho vay, đó là cách hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp, đồng đều và không tạo ra hiệu ứng bóp méo. Việc chọn những doanh nghiệp yếu thế để hỗ trợ sẽ lại tạo ra hiệu ứng bóp méo. Những doanh nghiệp không bị ảnh hưởng xấu bởi vì họ đã rất nỗ lực tìm cách chống chọi được, thì lại không được hỗ trợ. Còn những doanh nghiệp không làm, không nỗ lực, trở nên yếu đuối thì lại được hỗ trợ, đó là tín hiệu cho thấy thị trường bị bóp méo. Đúng là khi gặp khủng hoảng thì phải chấp nhận điều đó, nhưng để hỗ trợ một cách phổ quát, thì vấn đề là giảm được chi phí cho doanh nghiệp, trong đó có chi phí logistic, vốn, năng lượng, trong đó có quá trình vay vốn, như vậy sẽ hỗ trợ được một cách đồng đều và kích hoạt nền kinh tế phát triển ổn định.

11:26

Thưa TS Vũ Minh Tiến, khi triển khai chương trình hỗ trợ phục hồi thị trường lao động trong tổng thể của Đề án Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, sẽ cần phải lưu ý những điểm nào để bảo đảm an sinh cho người lao động, giúp họ có thể yên tâm làm việc tại các vùng kinh tế trọng điểm, gắn bó lâu dài với công việc, thưa ông?

TS Vũ Minh Tiến, Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam):

Trong thời gian vừa qua, cá nhân tôi rất chăm chú tìm hiểu về đề án Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Dưới góc độ người lao động, tôi nghĩ bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động không chỉ các vùng kinh tế trọng điểm, không chỉ các khu công nghiệp, khu đô thị mà chúng ta cần quan tâm cả khu vực nông thôn, khu vực phi chính thức.

Cá nhân tôi cho rằng bên cạnh những tác động tiêu cực của dòng di cư 2 chiều từ nông thôn lên thành thị và từ thành thị về nông thôn, trong đợt dịch Covid-19 vừa rồi, nhiều người về nông thôn, không hẳn là vấn đề tiêu cực mà cũng có những mặt tích cực khi việc này giúp chi phí nhà ở giảm, người lao động có thời gian chăm sóc gia đình. Vấn đề an sinh xã hội là vấn đề rất lớn. Cá nhân tôi cho rằng, tuy là góc độ người lao động nhưng vẫn cần đặt trong tổng thể chung của tình hình kinh tế, xã hội.

Thứ nhất, phải khẳng định rằng đây là đề án mà người lao động rất quan tâm. Vấn đề người lao động quan tâm nhất là sau đề án này thì việc làm, cuộc sống người lao động có tốt hơn không. Người lao động mong muốn có việc làm để mang lại thu nhập, tạo ra của cải vật chất, bảo đảm an sinh xã hội, Nhà nước cũng không thể kéo dài trợ cấp mãi được.

Trong vấn đề việc làm này, mặc dù khó khăn, nhưng cần phải tính toán đến bài toán tiền lương, vấn đề an sinh xã hội phải gắn chặt với vấn đề tiền lương trong đề án này. Tiền lương phải đủ kích thích để thu hút người lao động tham gia thị trường lao động, tiếp tục cống hiến trong công việc đang gắn bó, tiền lương phải bảo đảm có tích lũy.

Tóm lại, vấn đề việc làm, tiền lương có tích lũy, vấn đề an sinh xã hội phải được đặt trong tổng thể đề án này.

Thứ hai, là vấn đề nhà ở, mở rộng hơn là chỗ ở, chỗ sinh sống, phải an toàn, có phòng khám y tế, chỗ sinh hoạt phù hợp, chỗ học, nuôi dạy con cái để người lao động yên tâm làm việc. Hiện nay, đang có đề xuất gói hỗ trợ nhà ở 65 nghìn tỷ, cá nhân tôi thấy nên làm ký túc xá cho công nhân thuê trọ với giá hỗ trợ của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp cần sắp xếp chỗ ở phù hợp thói quen, lối sống, văn hóa, giải quyết vấn đề ca kíp, giờ giấc của công nhân.

Cuối cùng, vấn đề đào tạo lại cho người lao động có khả năng thích ứng trước các cú sốc. Từng người lao động cũng đang rất trông chờ sự hỗ trợ của doanh nghiệp, các cấp, các ngành, nhưng trước tiên họ cũng muốn chủ động để bản thân có thể tự lo cho mình trước, vậy nên khả năng tự chống đỡ, thích ứng linh hoạt là rất quan trọng để người lao động có thể vượt qua được khó khăn bất ngờ xảy đến.

11:38

Thưa TS Ngô Quỳnh An, theo bà, điều này có ý nghĩa thế nào với thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi chúng ta phải ứng phó với đại dịch Covid-19? Những mục tiêu và nội dung của Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 cần lưu ý những vấn đề gì trong việc triển khai cho phù hợp thực tế?

TS Ngô Quỳnh An, Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực (Đại học Kinh tế quốc dân): Về Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030, tôi nhận thấy các mục tiêu chúng ta đề ra khá đầy đủ. Tuy nhiên trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra, để bảo đảm an toàn cho người lao động trên thị trường, thì ngoài việc thúc đẩy sự tham gia của người lao động vào hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện, chúng ta còn cần thêm chính sách, giải pháp để định vị lại thị trường lao động sau làn sóng Covid-19 lần thứ tư.

Tại các địa phương, chúng ta cần xây dựng lại bản đồ hóa kỹ năng lao động để xem phía cung, phía cầu lao động hiện nay người ta cần gì.

Kể cả đối với những lao động hồi hương thì chúng ta cũng đã đáp ứng được phần nào. Nếu trước mắt chúng ta chưa sử dụng họ, có thể điều chuyển đến những vùng lân cận, không thúc đẩy di chuyển quá xa nữa. Bởi mô hình lao động hiện nay lúc này vẫn là di chuyển tự do, trong khi đấy, hệ thống tiếp cận dịch vụ xã hội chưa được đào tạo đầy đủ. Vì vậy, sự di chuyển này mang lại rủi ro rất lớn.

Mặc dù ban đầu, các doanh nghiệp có thể thấy việc lao động di chuyển tự do chi phí thấp, nhưng khi đại dịch xảy ra, các chi phí mới chồng chất và lên rất cao. Đó sẽ là tổn thất lớn nhất đối với cả người lao động và người sử dụng lao động, tạo tiền đề đứt gãy nguồn cung lao động.

Một vấn đề nữa cần đẩy mạnh là số hóa thị trường lao động. Khi số hóa thị trường lao động, chúng ta sẽ hỗ trợ cung cấp thông tin về những người lao động cũng như doanh nghiệp. Như vậy quản lý thị trường, phổ biến thông tin và định hướng lao động cũng dễ dàng hơn.

Cùng với đó là cung cấp đào tạo và chứng nhận mang tính cá nhân hóa, chỉ có thể thông qua mạng lưới công nghệ. Số hóa cũng sẽ giúp tuyển dụng và kết hợp công việc rõ ràng hơn, có thể thấy rõ qua những xu hướng làm việc như “di chuyển ảo”, “du mục kỹ thuật số”, cùng một lúc, một người có thể làm nhiều công việc khác nhau từ nhiều tỉnh.

11:40

Thưa ông Tào Bằng Huy, Phó Cục trưởng Cục Việc làm, đầu năm 2021, Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 176 về chương trình “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030”( hay Chương trình 176). Xin ông có thể cho biết về công tác triển khai chương trình trong thời gian vừa qua? Có hay không những khó khăn trong việc triển khai, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19?

Phó Cục trưởng Cục Việc làm Tào Bằng Huy:

Ngày 5/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030, với mục tiêu tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường lao động, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, bảo đảm kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động phù hợp với điều kiện của từng địa phương, và cụ thể hóa các mục tiêu cũng như giải pháp trong Chương trình 176 để phát triển thị trường lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành các quyết định, kế hoạch để cụ thể, và giao cho các đơn vị chức năng của Bộ triển khai thực hiện chương trình.

Sự bùng phát của dịch Covid-19 ở nước ta trong nửa đầu năm 2021 đã ảnh hưởng rất xấu đến thị trường lao động, gây khó khăn và thách thức lớn trong giai đoạn đầu triển khai Chương trình. Cụ thể như: việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển cung, cầu lao động, hỗ trợ phát triển hệ thống thông tin thị trường lao đông và tổ chức các hoạt động giao dịch việc làm kết nối cung-cầu lao động…

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tiếp tục chỉ đạo các địa phương nỗ lực thực hiện việc phát triển thị trường lao động. Bộ cũng đang tập trung rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để có những báo cáo, định hướng, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm và các văn bản quy phạm pháp luật về thị trường lao động; thực hiện các chính sách vay vốn, cũng như các dự án khác.

Đặc biệt, chúng tôi đang nghiên cứu xây dựng đề án cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, việc làm kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu dân cư, cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp; tổ chức các hoạt động phân tích, dự báo thị trường lao động để kịp thời cung cấp thông tin định hướng cho các chủ thể tham gia thị trường lao động.

Trong đợt dịch vừa rồi, chúng tôi nhận thấy rằng việc thu thập, nắm bắt thông tin thị trường lao động, cũng như tình hình lao động, việc làm, cung-cầu lao động là một việc rất cần thiết phải triển khai. Ngoài ra, Bộ cũng đầu tư nâng cao năng lực hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm để giúp các trung tâm thực hiện các hoạt động giao dịch việc làm. Hiện nay chúng tôi cũng đang đề xuất các tỉnh chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trung tâm dịch vụ việc làm kết nối liên thông, thu thập, nắm chắc thông tin về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cũng như nhu cầu, nguyện vọng của người lao động để kết nối liên thông giữa các vùng với nhau, qua đó tổ chức các phiên giao dịch việc làm trực tuyến để kết nối cung-cầu lao động hiệu quả.

11:45

Kết luận - đồng chí Phạm Song Hà, Ủy viên Ban Biên tập, Trưởng Ban Chính trị - Xã hội (Báo Nhân Dân)

Tọa đàm trực tuyến về giải pháp hỗ trợ, ổn định thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch -0

Kính thưa các quý vị đại biểu,

Các ý kiến của quý vị tại tọa đàm hôm nay đều rất sắc sảo, nhiều thông tin với những con số biết nói. Thay mặt Ban tổ chức, chúng tôi xin tạm khép lại tọa đàm thú vị này với 3 ý kiến:

Trước hết, chúng ta không chỉ nói bức tranh ảnh hưởng, thiệt hại về lao động, việc làm mà tập trung bàn về giải pháp tồn tại và thích ứng. Chúng ta không chỉ nói hiện tại doanh nghiệp và người lao động phải đối mặt gánh chịu mà bàn về tương lai của nền kinh tế cũng như tư duy phát triển của đất nước phải thay đổi.

Thứ hai, từ góc nhìn doanh nghiệp, người sử dụng lao động, chuyên gia đến từ các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện cho quyền lợi người lao động, chúng ta có nhiều điểm thống nhất tương đồng. Chúng ta có sáng kiến cách làm riêng, đột phá của từng lĩnh vực và cũng có va đập trong tư duy từ thực tiễn, điều này cần thiết để bổ sung, kiến tạo, hoàn chỉnh chính sách.

Tại tọa đàm, chúng ta đã bàn về ý kiến của Thứ trưởng Lê Văn Thành về chính sách vĩ mô của Chính phủ thông qua Nghị quyết 116 và Nghị quyết 68 về thực tiễn ngành lao động việc làm chúng ta phải đối mặt. Chúng tôi cũng rất quan tâm và thú vị với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thông qua ý kiến ông Lê Tiến Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may. Ở đây, ông không chỉ nói vai trò doanh nghiệp - tức là bàn tay chủ động của doanh nghiệp mà còn nói về bàn tay của nhà nước trong tương quan với bàn tay vô hình của thị trường mà đại dịch đặt ra cho chúng ta rất nhiều thay đổi về tư duy.

Chúng tôi quan tâm và ghi nhận cũng như tìm hiểu trao đổi với quý vị về khái niệm thú vị về bình đẳng hoàn hảo của TS Ngô Quỳnh An hay gọi là di chuyển ảo trong tư duy nghiên cứu của Tiến sĩ về lực lượng lao động. Những khái niệm này không chỉ là khái niệm mà còn phản ánh thực trạng mà chúng ta cần phải thay đổi tư duy tiếp cận vấn đề, hướng tới người lao động.

Chúng tôi cảm ơn tham luận có những ý kiến tư duy biện chứng về xử lý cách tiếp cận và xử lý dòng người di cư từ nơi làm việc về nơi cư trú do đại dịch, và sau đó quay trở lại nơi làm việc tại khu trọng điểm kinh tế. Đây không phải là vấn đề một sớm, một chiều mà là vấn đề tư duy dài hạn mà TS Nguyễn Tú Anh đặt ra.

Những kinh nghiệm đề xuất quản lý dữ liệu lao động phi chính thức gắn với quản lý số của hệ thống thị trường lao động, quản lý vĩ mô của doanh nghiệp và cách tiếp cận trong chuyển đổi số của TS Giang Thanh Long thật sự đặt vấn đề rất hiện đại trong quản trị nhà nước hiện tại.

Chúng tôi rất quan tâm ý kiến cụ thể xác thực của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Cục Việc làm về những vấn đề sát sườn của người lao động. Những lập luận, kiến giải và số liệu của các vị đều từ khảo sát trách nhiệm và công phu về cung và cầu lao động, từ đó đặt ra những vấn đề lớn về chiến lược dài hạn lao động việc làm trong tương lai.

Thứ ba, chúng tôi cho rằng lao động việc làm, đổi mới an sinh xã hội, quản trị quốc gia về nguồn nhân lực cho tới các vấn đề lớn, vĩ mô về quy hoạch ngành, quy hoạch vùng lao động việc làm, triết lý và cấu trúc an sinh xã hội hiện đại sẽ tiếp tục là vấn đề toàn bộ hệ thống chính trị, người lao động, các doanh nghiệp, cơ quan báo chí, đông đảo bạn đọc quan tâm. Vì ý nghĩa đó, thay mặt Ban Biên tập Báo Nhân Dân và cơ quan đồng tổ chức là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn sự có mặt và tham gia ý kiến của các vị khách.

Chúng tôi rất mong các quý vị tiếp tục đồng hành cùng Báo Nhân Dân trong vấn đề liên quan trực tiếp chuyên môn nghiên cứu, trách nhiệm quản lý, cũng như nhu cầu thiết thân của bạn đọc Báo Nhân Dân và bạn đọc tương lai.

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn và xin chúc sức khỏe các quý vị.