Tình yêu nghề nghiệp và chỗ đứng của phê bình văn học

Phê bình văn học nói chung và phê bình văn học ở Việt Nam nói riêng, vốn dĩ không phải là các thao tác nghiên cứu - đánh giá đơn giản, mà là một quá trình lao động nghề nghiệp đòi hỏi tư duy sâu sắc trong quá trình tiếp nhận - đánh giá tác phẩm của người viết phê bình - trong tư cách là người đọc chuyên nghiệp. Nếu tác phẩm văn học được hình thành bởi quá trình nhận thức - sáng tạo của nhà văn thì phê bình văn học đề cập đến hiệu quả của việc tác động tới cảm thụ của người đọc. Và theo tôi, đó là vấn đề có thể tiếp cận từ các phương diện.

Ðể thẩm định giá trị tư tưởng - thẩm mỹ của tác phẩm văn học cần bắt nguồn từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài năng của tác giả... đến hiệu quả tư tưởng - thẩm mỹ sau khi đọc, ví như là cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ...

Trên cơ sở nhận thức về tầm quan trọng của tiếp nhận văn học trong đời sống xã hội, khả năng phát hiện sáng tạo của người đọc đã làm cho hoạt động văn học trở nên sống động, tác phẩm nghệ thuật có thêm giá trị, và tiếp tục được hoàn chỉnh. Nhờ tác phẩm văn học mà người đọc mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng, tình cảm cũng như năng lực tư duy cảm thụ.

Phê bình văn học và tác phẩm văn học là hai mặt không thể tách rời của tiến trình văn chương. Phê bình văn học là cách mà người đọc liên hệ tác phẩm với các bình diện khác nhau của đời sống, về nội dung khách quan, là sự nhận thức của người đọc... từ đó làm cho tác phẩm phong phú thêm và mở rộng ra. Nói một cách ngắn gọn thì phê bình văn học chỉ là một trong những giới hạn chủ quan của sự chiếm lĩnh nội dung khách quan của tác phẩm. Ðể tiếp tục thực hiện thao tác phê bình văn học, người phê bình phải xác lập "góc độ" tiếp nhận tác phẩm, từ phân tâm học, xã hội học hay ký hiệu học...

Ðồng thời, một mặt phê bình văn học cần có điểm nhìn "lưu động" để vừa linh hoạt tiếp cận để thẩm định - đánh giá, một mặt tránh tình trạng hiểu sai, thậm chí xuyên tạc tác phẩm. Ðối với một tác phẩm văn học, nếu trình độ cảm thụ của người đọc khác nhau, hoặc đọc trong những thời điểm khác nhau thì kết quả tiếp nhận tất yếu sẽ khác nhau. Khoảng cách thẩm mỹ giữa tác phẩm và người đọc là khoảng cách giữa tầm đón nhận có trước của độc giả với tác phẩm, nó trở thành một tiêu chuẩn để đo lường phản ứng của công chúng hoặc những phán đoán của người phê bình, tức là tác phẩm được chấp nhận, tác phẩm bị phản đối hoặc gây tranh cãi, tác phẩm được một số cá nhân tán thưởng, được hiểu rõ dần qua cách tiếp nhận lịch sử.

Hoạt động đọc cụ thể của người đọc là kết quả nhận thức có được từ "hệ thống tín hiệu thứ hai", trong quá trình đó, người đọc chuyển hóa được những ký hiệu văn bản thành hình tượng thể hiện những tình cảm, tư tưởng trong tác phẩm.

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, hoạt động đọc tác phẩm của công chúng, đặc biệt là giới trẻ, dường như bị "chững" lại, văn hóa đọc như không còn là nhu cầu phổ biến rộng rãi.

Nhiều khi giới thiệu một cuốn sách đang là "hiện tượng văn học" được đánh giá cao thì cũng không hẳn sẽ tác động đến hoạt động đọc sách của các bạn trẻ. Và nếu chúng ta tiến hành một cuộc điều tra về văn hóa đọc trong giới trẻ hôm nay, thì cũng không loại trừ một khả năng rằng, kết quả thu được không lấy gì là phấn khởi.

Ngay như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, gây xôn xao dư luận là thế, nhưng "dư luận" ở đây chỉ giới hạn trong phạm vi những ai quan tâm đến văn học, còn ngoài ra tác phẩm không chắc đã mang một ý nghĩa nào đối với nhiều người. Có thể có người đã đọc, nhưng đọc theo cách mà các nhà phê bình ca ngợi chứ chưa hẳn là đọc như một sự tiếp nhận tư tưởng - thẩm mỹ độc lập.

Vậy làm sao để tác phẩm tồn tại như tác giả mong đợi? Văn học tồn tại trong lòng người đọc không như là một dấu tích, một kỷ vật mà là một hình tượng sống và văn học dĩ nhiên nó không tự sống được nếu không đáp ứng nhu cầu tinh thần của người đọc, không đánh thức khả năng phát hiện sáng tạo của người đọc để làm tăng các giá trị của tác phẩm nghệ thuật.

Nếu nói rằng số phận tác phẩm văn học được quyết định bởi người đọc thì e rằng trong nền văn học hiện đại hôm nay khó tìm thấy tác phẩm ưu tú, có thể sống với thời gian. Lý do thì vô vàn, nhưng mấu chốt vẫn là nhiệt tình đón nhận của công chúng và vì vậy, các giá trị chứa đựng trong tác phẩm khó lòng có khả năng được đón nhận một cách rộng rãi.

Ðiều đó lí giải tại sao có một thời xuất hiện rất nhiều tác phẩm văn học có giá trị cả về nội dung lẫn hình thức như Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai... nhưng đến thời điểm hiện tại, số tác phẩm có giá trị tư tưởng - nghệ thuật thật sự dường như rất ít. Là lớp bạn đọc đông đảo, những người trẻ hôm nay như bị cuốn theo nhịp chảy sôi động của cuộc sống và tính gấp gáp của thời gian, đã dần dần làm vơi mỏng sự đầy đặn của văn hóa đọc. Bởi cũng là người trẻ tuổi, nên tôi tin rằng, ngày nay, tỷ lệ các bạn cùng thế hệ với tôi rất ít đọc những tác phẩm văn chương kinh điển được cả thế giới biết đến. Thiết nghĩ, đó là một sự thật đáng buồn của văn hóa đọc và rất đáng báo động (?).

Phê bình văn học thuộc phạm vi nghiên cứu - đánh giá chuyên sâu, có sự tìm tòi, nghiền ngẫm một cách thấu đáo. Những yếu tố cần thiết ấy dường như không phù hợp với nhịp sống hối hả hôm nay, cho nên việc đòi hỏi một lực lượng các nhà phê bình văn học trẻ chuyên nghiệp là điều khó thực hiện.

Ðất sống của các bài viết về phê bình văn học không nhiều, tiền nhuận bút không cao... nhưng để có được bài viết lại đòi hỏi có thời gian, nội dung bài phê bình phải có những nhận định cụ thể, mang tính khoa học và trình độ thẩm định văn chương của người viết. Các yêu cầu này, nếu một người không có quỹ thời gian rộng rãi, không có tình yêu văn học thì khó có thể theo nghiệp phê bình. Tố chất đó, đa phần chỉ phù hợp với những ai coi văn học là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn con người, lấy sự khám phá giá trị của tác phẩm và sự gợi mở về giá trị đối với tác giả và công chúng làm mục đích của nghề nghiệp xã hội.

Trong kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, nhiều cuốn sách ra đời được coi như là "thương phẩm", nên có những cuốn sách tốt, có giá trị thì giá cao và ngược lại. Giá cả và sự tiêu thụ cũng có thể giúp làm bộc lộ các nhu cầu lành mạnh và mới mẻ của công chúng, tác động tích cực, kích thích người sáng tác và thúc đẩy văn học phát triển. Song, những cuốn sách yếu kém về tư tưởng - nghệ thuật nếu được nhà phê bình quảng cáo rùm beng lại có thể được tiêu thụ nhiều hơn và điều đó có thể làm tổn hại sự phát triển lành mạnh của văn hóa đọc.

Khi tác phẩm ra đời, được đặt vào quá trình tiêu thụ thì nhất thiết phải đứng trước những tình huống đối lập như: tồn tại và đào thải, chọn lựa và loại bỏ, tiếp nhận tích cực và phản đối gay gắt. Từ thực tế đó, nếu bài phê bình chỉ có ý nghĩa đối với giới văn chương, với những ai quan tâm đến văn chương và đôi khi, ngay trong giới sáng tác văn học cũng có cách nhìn nhận không mấy tích cực với việc nghiên cứu - phê bình, thì các nhà phê bình văn học dù tâm huyết đến đâu đi chăng nữa vẫn thấy "oải" đối với nghề nghiệp của mình.

Tính chất hàng hóa đan xen vào quá trình truyền bá sản phẩm phê bình là điều có thực. Tôi đồng ý với ý kiến của nhà phê bình văn học trẻ Hoài Nam khi cho rằng phê bình văn học không phải là một sản phẩm thu hút thị hiếu người tiêu dùng. Quan sát các hiệu sách, ngay tức khắc chúng ta nhận thấy các đầu sách viết về vấn đề lý luận văn học, phê bình văn học thường không nhiều, dường như chỉ đủ cầm chừng cho hiệu sách thêm phong phú.

Nhiều chủ hiệu sách thừa nhận các đầu sách đó không có thị trường tiêu thụ rộng rãi, đa phần đối tượng mua sách loại này chủ yếu phục vụ việc nghiên cứu hoặc học tập, mà nhu cầu đó thì có hạn. Một sản phẩm ra đời để được mọi người quan tâm đón nhận là sản phẩm có tính năng vượt trội các sản phẩm cũ và phù hợp xu thế hiện đại. Phê bình văn học dù không phải là một hiện tượng mới lạ nhưng lại là sản phẩm tinh thần ở mức độ tư duy cao, mang tải những chất lượng hữu ích. Vì thế, tôi nghĩ, việc xuất hiện những tác phẩm phê bình kém chất lượng cùng với số lượng ít ỏi là kết quả tất yếu của sự "hụt hơi" về lực lượng phê bình văn học.

Nhu cầu về lực lượng phê bình văn học trẻ chuyên nghiệp hiện nay tuy là điều khó thực hiện nhưng không khó đến mức không thể làm được. Nếu đăng các tác phẩm phê bình văn học trên diện rộng của các phương tiện truyền thông đại chúng là chúng ta đã tạo ra cho nghiên cứu - phê bình văn học "mảnh đất" sinh tồn của nó.

Nếu người viết phê bình văn học trẻ thật sự tâm huyết và yêu nghề, nếu chúng ta quan tâm thỏa đáng đến lợi ích của người viết thì sẽ thu hút được nhiều nhà phê bình văn học trẻ. Và nếu trên hệ thống báo chí xuất hiện những bài nghiên cứu - phê bình có chất lượng thì chắc chắn sẽ thu hút bạn đọc. Tôi nghĩ, vấn đề then chốt vẫn là việc xác lập chỗ đứng của phê bình trong đời sống văn học và tình yêu nghề nghiệp của những tác giả lấy phê bình làm nghề nghiệp của đời mình.

Có thể bạn quan tâm