Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ sau này mà ngay từ khi xảy ra, đã thu hút sự quan tâm, tìm hiểu, đánh giá, bình luận của giới chính trị, quân sự, sử học và báo chí nước Mỹ cũng như nước ngoài. Chung quanh sự kiện lịch sử "quan trọng nhất và phức tạp nhất" này của cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam - như nhìn nhận của Giáo sư sử học G.Côn-cô, bởi quan điểm xem xét của các tác giả cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác biệt.
Bài viết này dẫn ra những số liệu liên quan tới sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968 mà hai phía Mỹ và Việt Nam công bố với mong muốn giúp cho bạn đọc có thêm cơ sở nhìn nhận, ngẫm suy về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - cuộc tiến công bất ngờ và táo bạo: đồng loạt đánh vào các mục tiêu quan trọng của chính quyền Sài Gòn ở các đô thị trên toàn miền nam lúc bấy giờ.
I. Số quân các bên trên chiến trường miền nam trước Tết Mậu Thân 1968
1. Phía Việt Nam (dẫn theo Tài liệu số 790, lưu tại Trung tâm lưu trữ, Bộ Quốc phòng Việt Nam)
- Chủ lực Quân giải phóng 220.000
- Bộ đội địa phương 57.000
Tổng cộng 277.000
2. Phía Mỹ, một số đồng minh của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (dẫn theo Tình hình quân sự năm 1967 của Võ Phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ 16.105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II).
- Quân đội Hoa Kỳ 497.498
- Nam Triều Tiên 48.839
-Australia 6.579
- Thái-lan 2.242
- Philippines 2.021
- New Zealand 534
- Tây Ban Nha 13
- Chủ lực Sài Gòn 634.475
- Lực lượng bán quân sự 141.345
Tổng cộng 1.333.546 (chưa kể hàng chục vạn dân vệ và 70.000 cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn).
Vào dịp Tết Mậu Thân, 40% số sư đoàn chiến đấu của lục quân Mỹ, 50% số sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, 50% số máy bay chiến đấu, 30% số tàu chiến Mỹ đang tập trung vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Cần thấy rằng, trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ, châu Âu chứ không phải châu Á và lại càng không phải Việt Nam, là hướng trọng điểm mà Mỹ luôn dành sự ưu tiên về tất cả các phương diện quân sự Mỹ.
Thế nhưng, trên hướng trọng điểm này, vào những thời điểm căng thẳng nhất, lực lượng quân đội Mỹ tập trung ở mức cao nhất cũng chỉ đạt tới con số 493.000 quân. Còn tại Việt Nam, vào đầu năm 1968, số quân Mỹ trên bộ và số quân tập trung ngoài khơi tới 800.000 người (Theo Biên bản điều tra quốc hội Mỹ, tháng 5-1970), tức gấp đôi số quân Mỹ triển khai ở châu Âu.
Bên cạnh số quân, Mỹ đem vào sử dụng trong chiến tranh Việt Nam các hệ vũ khí và các loại phương tiện, thiết bị chiến trường tối tân nhất mà thành tựu khoa học - kỹ thuật Mỹ đạt được trong những năm giữa thế kỷ 20. Chỉ riêng việc thành lập sư đoàn "kỵ binh không vận" và đưa vào miền nam 4.000 chiếc máy bay lên thẳng, theo Westmoreland, có thể thay thế cho hơn một triệu quân đánh bộ mà lẽ ra Washington và chính quyền Sài Gòn phải huy động.
Theo tác giả Ðôn Ô-bớc-đoi-phơ, trong cuốn sách nổi tiếng của ông, cuốn TẾT (Doubeday Company, New York, 1971), thì, "Trong trận chiến của mọi trận chiến này của cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai, Bộ Chỉ huy cộng sản đã tung vào một lực lượng ước chừng 67.000 quân trong tổng số 240.000 quân ở miền nam Việt Nam, tức là một phần tư quân số. Dàn ra để chống lại họ là 1.100.000 tay súng: 492.000 quân chiến đấu Mỹ, 61.000 quân Nam Hàn, Thái-lan và các nước trong "thế giới tự do" khác; 342.000 quân thường trực của chính quyền Sài Gòn, 284.000 quân địa phương và lực lượng phòng vệ dân sự. Ngoài ra, lực lượng viễn chinh Mỹ (ở miền nam Việt Nam) còn được sự yểm trợ của 2.600 máy bay, 3.000 máy bay lên thẳng, và 3.500 xe thiết giáp".
Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đã như những đợt sóng tới tấp đánh vào bốn trong số sáu thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Hầu hết các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn bị tiến công. Bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động Quân giải phóng đã đánh mạnh, đánh trúng bốn bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn của chính quyền Sài Gòn, hai bộ tư lệnh biệt khu, hai bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông huyết mạch...
II. Tổn thất của các bên tham chiến trong năm 1968
1. Phía Việt Nam
- 111.306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền nam đã hy sinh và bị thương, hàng vạn quần chúng cách mạng đã ngã xuống" (dẫn theo Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Ðảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 - 1954-1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 441).
- Trong đó, 44.824 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã anh dũng hy sinh (Ðường 9: 3.994, Trị Thiên: 4.862; Ðồng bằng Khu 5: 10.732; Tây Nguyên: 3.436; Khu 6: 1.254; Khu 10: 440; Ðông Nam Bộ: 14.121; Khu 8: 2.484; Khu 9: 3.501); 61.267 bị thương (Cục Tác chiến, số 124/TGi, hồ sơ 1.103 (11-2-1969)).
2. Phía quân Mỹ và quân đội Sài Gòn
- Năm 1968 "là năm gia tăng ghê gớm số thương vong của quân Mỹ ở miền nam, gần gấp hai lần tổng số thương vong của tất cả các năm trước gộp lại: 30.610 so với 16.201" (J.Xtây-in và Mc Lép-sơn: Sổ tay sự kiện chiến tranh Việt Nam, sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Trung tâm báo chí nước ngoài, Bộ Ngoại giao dịch và phát hành, Hà Nội, 1993, tr. 81).
- Cũng theo cuốn sách trên đây, số binh lính Mỹ bị giết ở miền nam Việt Nam trong năm 1968 là 14.589; chỉ tính một tuần, từ ngày 10 đến ngày 17-2-1968, đã có tới 543 lính Mỹ thiệt mạng trong các cuộc giao tranh giành quyền kiểm soát các đô thị. "Ðó là một trong những tuần thương vong cao nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam" (Sđd, tr. 81). Bước sang năm 1969, "số người Mỹ chết trong tuần lễ đầu lên tới 453, tuần lễ thứ hai là 336, tuần lễ thứ ba là 351; những thiệt hại của phía nam Việt Nam (tức quân đội Sài Gòn) còn nặng nề hơn vì lên tới trung bình 500 người mỗi tuần" (H.Kít-xin-giơ: Những năm ở Nhà Trắng).
- Quân đội Sài Gòn: số thương vong cả năm 1968 hiện chưa có tài liệu nào được công bố hoặc sách báo nào đề cập. Sách Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968 của Bộ tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, tháng 8-1968, cho biết: Trong tháng 2 và tháng 3-1968, quân đội Sài Gòn bị tổn thất 20.977 người, trong đó có 4.909 chết; quân Mỹ và quân một số nước đồng minh của Mỹ bị tổn thất 24.013, có 4.124 chết.
III. Phản ứng của quân Mỹ trên chiến trường miền nam Việt Nam trong và sau Tết Mậu Thân 1968
1. Mỹ sử dụng một khối lượng bom đạn khổng lồ giội xuống các vùng ven đô thị, các vùng nông thôn đồng bằng. Hành động này được báo chí Mỹ và phương Tây ngày đó ghi nhận. Chỉ riêng chung quanh Sài Gòn - Gia Ðịnh, trong vòng chín ngày đầu tháng 6-1968, "máy bay B52 đã thực hiện 166 phi vụ (...) nhằm ngăn chặn Việt cộng tập trung" (Hãng tin AP, ngày 21-6-1968). Ðể hiểu rõ hơn mức độ tàn phá của bom đạn do loại "pháo đài bay" này rải thảm, xin trích dẫn một đoạn của tờ Thời báo New York, ngày 26-8-1968: "Mỗi chiếc B52 có đủ bom để trải xuống thành một hình chữ nhật dài 1.000 mét, ngang 100 mét. Thấy kết quả khả quan nên số phi vụ B52 tại miền nam Việt Nam được thực hiện ngày một tăng, trong nửa cuối năm 1965, số phi vụ hàng tuần là 100; đầu năm 1967, mỗi tuần có 186 phi vụ và bây giờ (tháng 8-1968) thì mỗi tuần có 350 phi vụ". Ngay từ tháng 6-1968, tướng Mỹ G. Abram - người thay W.Westmoreland làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ tại Sài Gòn, tuyên bố: "Sẽ cho B52 ném thật nhiều bom đến mức (...) chỉ cần phái một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những quyển sổ tay để ghi kết quả" (Hãng tin AP, ngày 29-6-1968). Tạp chí Tin Mỹ và Thế giới, ngày 1-4-1968 cho rằng, việc ném bom và pháo kích bừa bãi của Mỹ có thể sẽ "đẻ ra nhiều Việt cộng hơn là giết họ".
2. Trong khi đó, nhiều đơn vị quân Mỹ thẳng tay tàn sát nhiều người dân vô tội hòng gây nỗi khiếp sợ trong dân chúng miền nam, mà điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ - vùng ven thị xã Quảng Ngãi, ngày 16-3-1968. Tập sách ảnh Nhật Bản "Việt Nam: cách mạng và thắng lợi" ghi lại vụ thảm sát đẫm máu này như sau: "Ngày 16-3-1968, xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi bị quân Mỹ triệt hạ, tàn sát một lúc 500 thường dân. Lúc đó, quân Mỹ dùng mọi loại máy bay sẵn có chia làm bốn tầng bay trên bầu trời Sơn Mỹ. Bay thấp dưới 300 mét là máy bay lên thẳng vũ trang bắn chết tất cả những "Việt cộng" định thoát ra khỏi xã. Trên 300 mét là máy bay chở sĩ quan tư lệnh quân cơ động, chỉ huy trận đánh. Trên 800 mét là máy bay sư đoàn trưởng quan sát trận đánh. Sự tàn bạo lên đến cực điểm khi quân Mỹ coi những cuộc hành quân đó như một trò chơi thể thao. Nó làm chúng ta phẫn nộ tới mức không thể nào tả nổi".
3. Ý chí của quân đội Sài Gòn và quân Mỹ trên chiến trường sa sút mạnh
Theo G.Côn-cô, trong Giải phẫu một cuộc chiến tranh (Tập 1, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H, 1991) nhận xét: "Tỷ lệ đào ngũ của quân đội Việt Nam cộng hòa đạt tới đỉnh cao hơn bao giờ hết; nhìn toàn bộ, năm 1968 là năm xấu nhất của cuộc chiến tranh cho đến năm 1975. Các tiểu đoàn bộ binh của Việt Nam cộng hòa trong hai tuần đầu của tháng 2 chỉ có một nửa số quân, các lực lượng biệt động ưu tú lại còn thấp hơn. Bốn trong chín tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu. Các quan chức Mỹ vô cùng bất bình về tình hình không kỷ luật và nạn cướp phá của họ suốt giai đoạn đó. Cuốn Sổ tay sự kiện chiến tranh Việt Nam, nhận định: "Việt Nam hóa chiến tranh đã đặt gánh nặng quá lớn lên quân đội Sài Gòn, do đó nảy sinh một vấn đề chủ yếu trong quân đội Sài Gòn (...) tệ đào ngũ". Cũng theo sách trên, "số lượng đào ngũ trong quân đội Sài Gòn riêng năm 1969 đạt tới con số kỷ lục: 107.000 người" (Sđd, tr. 82). Vào cuối năm 1968, các cố vấn Mỹ xếp hạng 2 sư đoàn Việt Nam Cộng hòa là "cực kỳ kém", 8 sư đoàn chỉ ở mức "khá lên" và chỉ một sư đoàn là "giỏi" (dẫn theo G.C. Hơ-ring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H, 1999, tr. 274).
Binh sĩ Mỹ trên chiến trường Việt Nam, từ sau tuyên bố đêm 31-3-1968 của Tổng thống Mỹ Johnson, bước vào thời kỳ "thoái chí". Dưới nhan đề Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (Tạp chí Xưa và Nay dịch, đăng số 225, tháng 12-2004), tác giả Lau-ren Sé-ra-ri ghi nhận: "Chính từ năm 1968, đã phổ biến sử dụng ma túy và những vụ tiến công sĩ quan bằng lựu đạn" trong số các đơn vị quân Mỹ. Và, chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh sau đó của chính quyền Nixon chẳng những không ngăn chặn được tình hình này, mà ngược lại - như Sổ tay sự kiện chiến tranh Việt Nam cho biết: "Ý chí (của quân Mỹ trên chiến trường) bị chôn vùi, do dự khi bước vào cuộc chiến, sử dụng ma túy gia tăng, phá vỡ kỷ luật quân đội, tệ tham nhũng và tăng thêm số sĩ quan đào ngũ" (Sđd, tr. 82). Thậm chí, những người lính sư đoàn bộ binh số một "Anh cả đỏ" giờ đây gọi Sư đoàn này là "Anh cả chết" (Sđd, tr. 82).
Giáo sư G.Côn-cô trong tác phẩm Giải phẫu một cuộc chiến tranh cho biết, đến năm 1973, Bộ Quốc phòng Mỹ chính thức ghi nhận: 35% tổng số binh sĩ Mỹ ở Việt Nam dùng bạch phiến và khoảng 20% đã bị nghiện một thời gian trong khi làm nhiệm vụ ở Việt Nam. Theo tác giả, thậm chí "một số ước tính khác còn cho con số cao hơn". Bên cạnh đó, từ năm 1968, nạn xung đột chủng tộc trong binh lính Mỹ tăng nhanh, hiện tượng không tuân lệnh chỉ huy lan rộng trong các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Mỹ, kể cả việc phá hoại vũ khí và phương tiện chiến tranh được trang bị.
Vì vậy, "theo quan điểm của ngày càng nhiều những nhà dân sự và quân sự trong Lầu Năm góc thì cần thiết phải đưa đại bộ phận lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam và xây dựng lại toàn bộ cơ cấu nhân sự càng nhanh càng tốt... Các tướng và đô đốc hầu như nhất trí rằng, giải quyết các vấn đề đó là một điều kiện tiên quyết để làm cho sức mạnh quân sự Mỹ trên thế giới lại được tin cậy trở lại một lần nữa" (G.Côn-cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Tập 2, Sđd, tr. 41).