Đường lối phát triển kinh tế - xã hội của nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Từ những chủ trương và chính sách đúng đắn của Ðảng về hỗ trợ các đối tượng chính sách trong quá trình phát triển kinh tế, công tác xóa đói, giảm nghèo ở nước ta trong thời gian qua đạt được những kết quả nổi bật. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm xuống chỉ còn dưới 3% vào năm 2020; Việt Nam đã sớm hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, trở thành hình mẫu cho các quốc gia đang phát triển về xóa đói, giảm nghèo.
Trong các chính sách xã hội, tín dụng chính sách xã hội là một điểm sáng, được đánh giá là giải pháp sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, các mục tiêu, nhiệm vụ mà Ðảng và Nhà nước đã đề ra về giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đây, hằng năm ngân sách nhà nước dành khoảng 5-7% để chi trực tiếp cho các đối tượng chính sách xã hội (bao gồm bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo…), việc hình thành định chế tài chính tín dụng dành cho một số đối tượng chính sách xã hội với cơ chế chuyển từ cấp phát, hỗ trợ trực tiếp sang hình thức cho vay ưu đãi đã giảm dần gánh nặng ngân sách; đồng thời, khuyến khích sự nỗ lực vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu của các đối tượng chính sách.
Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22-11-2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với tín dụng chính sách xã hội (viết tắt là Chỉ thị số 40) thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Ðảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Tín dụng chính sách xã hội được thực hiện thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện được tăng cường. Quy mô tăng trưởng tín dụng mở rộng, số lượt người được thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi ngày càng tăng, nâng cao chất lượng tín dụng. Ðến nay, đã có hơn 10 triệu lượt hộ được vay vốn từ NHCSXH, trong đó có hơn 2 triệu lượt hộ đã thoát nghèo bền vững; hơn 3,3 triệu hộ gia đình của Việt Nam thông qua tín dụng của NHCSXH đã được sử dụng nước sạch và nước bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh; có 125 nghìn lượt hộ được vay vốn của NHCSXH để xây dựng nhà ở; 315 nghìn lượt học sinh, sinh viên được vay vốn NHCSXH để tiếp tục học tập, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng; hơn 1 triệu lượt người được vay vốn NHCSXH phát triển sản xuất và 21 nghìn lượt người được vay vốn đi xuất khẩu lao động…
Kết quả triển khai Chỉ thị số 40 khẳng định ý nghĩa về kinh tế, đồng thời có ý nghĩa chính trị và xã hội to lớn, góp phần tạo dựng niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước, đặc biệt đối với nhóm người dễ bị tổn thương; tăng cường tính chủ động, sáng tạo, nâng cao ý thức trách nhiệm khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại của người thụ hưởng chính sách; góp phần gắn kết các thành viên trong gia đình, gắn kết nhân dân với Ðảng, nhân dân với các hội đoàn thể, giữa các hội đoàn thể với nhau, nhân dân với nhân dân; giúp chính quyền nắm được tâm tư nguyện vọng của nhân dân thông qua giao dịch xã, tổ tiết kiệm và vay vốn; kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắc, bức xúc của nhân dân; góp phần đẩy lùi tệ nạn xã hội và đẩy lùi tình trạng tín dụng đen, ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội tại địa phương; làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Chúng ta ghi nhận kết quả triển khai các nhiệm vụ nêu trong Chỉ thị số 40. Ðó là:
- Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, chính quyền các cấp đã quan tâm, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch và các quyết định triển khai thực hiện Chỉ thị. Các tổ chức chính trị - xã hội đã vào cuộc mạnh mẽ thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn, quán triệt và chỉ đạo các cấp hội thực hiện các nội dung của Chỉ thị có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội. Ban Cán sự đảng các bộ, ngành đã chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đồng bộ với các chủ trương, quan điểm đề ra tại Chỉ thị để tổ chức thực hiện thống nhất, đồng bộ trong cả nước. 100% cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp ban hành văn bản chỉ đạo, lãnh đạo công tác tín dụng chính sách xã hội phù hợp với tình hình địa phương, chủ động bố trí ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH, gắn việc huy động và sử dụng nguồn vốn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững.
- Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội ngày càng được nâng cao. MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã chủ động, tích cực thực hiện vai trò tập trung lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách của Ðảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách khác; nâng cao hiệu quả giám sát toàn dân đối với công tác tín dụng chính sách xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội ưu tiên triển khai Chỉ thị số 40 như một giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động và công tác dân vận ở cơ sở; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH và chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội, chất lượng của tổ tiết kiệm và vay vốn; tập trung hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn theo quy định; đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn; tăng cường kiểm tra, giám sát, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả, lồng ghép với các chương trình, dự án của các tổ chức chính trị - xã hội; làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu.
- Ưu tiên tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác vào NHCSXH. Giai đoạn 2014 - 2019, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Ðảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp luôn quan tâm tạo điều kiện bố trí đầy đủ nguồn vốn cấp bù chênh lệch lãi suất, phí quản lý, cấp bổ sung vốn điều lệ, huy động và tập trung các nguồn lực tài chính, để bảo đảm có đủ nguồn vốn thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội cho người nghèo và đối tượng chính sách khác, đáp ứng nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách xã hội. Quốc hội ban hành kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước hằng năm, trung hạn và dài hạn; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 6 cơ chế, chính sách liên quan hoạt động tín dụng chính sách xã hội; các bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ của mình đã ban hành các thông tư hướng dẫn về cơ chế quản lý tài chính đối với NHCSXH, theo hướng tăng tính chủ động, bảo đảm hiệu quả cho hoạt động tín dụng chính sách xã hội và hoạt động của NHCSXH, qua đó làm giảm “gánh nặng” ngân sách nhà nước trong cấp bù lãi suất và phí quản lý cho NHCSXH. Ðặc biệt, qua công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị số 40 cho thấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quan tâm, chỉ đạo kịp thời các tổ chức tín dụng nhà nước duy trì số dư tiền gửi 2% trên nguồn vốn huy động. Sau khi Chỉ thị số 40 ban hành, nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng nhà nước đạt 71.270 tỷ đồng, tăng gấp 1,37 lần so với cuối năm 2014 (thời điểm ban hành Chỉ thị số 40), chiếm tỷ trọng 34,4% tổng nguồn vốn hoạt động của NHCSXH.
HÐND, UBND các cấp căn cứ chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Tài chính tiếp tục dành một phần ngân sách hằng năm ủy thác qua NHCSXH để cho vay các đối tượng chính sách xã hội; ban hành cơ chế đặc thù và quy chế quản lý, sử dụng nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Một số tỉnh, thành phố ban hành chuẩn nghèo cao hơn chuẩn nghèo quốc gia đã bố trí đủ nguồn lực để cho vay các đối tượng này. Từ khi có Chỉ thị số 40, nguồn vốn các địa phương ủy thác sang NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tăng 11.209 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 29,4%, tăng gấp gần 3,9 lần so với giai đoạn trước khi có Chỉ thị, đưa tổng nguồn vốn ủy thác của địa phương đến ngày 31-10-2019 đạt 15.017 tỷ đồng. Ðiển hình trong đó một số tỉnh, thành phố bổ sung nguồn vốn ủy thác tại địa phương nhiều cho NHCSXH như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Ðà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Ðồng Tháp, Ðồng Nai, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Cần Thơ, Khánh Hòa, Quảng Nam, Gia Lai,… Trong đó, rất đáng ghi nhận một số địa phương có số thu ngân sách còn khó khăn nhưng vẫn quan tâm dành một phần ủy thác sang NHCSXH để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn như: Lai Châu, Bắc Kạn, Cao Bằng... vay. Huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trên thị trường tính đến cuối năm 2019 có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 29.124 tỷ đồng, tăng 22.942 tỷ đồng so với thời điểm trước khi ban hành Chỉ thị số 40 vào cuối năm 2014.
- Hội đồng quản trị, ban đại diện hội đồng quản trị NHCSXH các cấp đã được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng cao. Tổ chức đảng thuộc Ðảng bộ NHCSXH được kiện toàn, phù hợp với mô hình hoạt động, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy đối với hoạt động của NHCSXH, trong đó có việc triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Ban đại diện hội đồng quản trị các cấp đã làm tốt hơn chức năng quản trị hoạt động của NHCSXH, kịp thời ban hành các nghị quyết, chủ trương, chính sách, quy định, quy chế tổ chức và hoạt động của NHCSXH, giải quyết các khó khăn, vướng mắc liên quan hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực, việc triển khai Chỉ thị số 40 vẫn còn một số hạn chế, tồn tại. Nguyên nhân chủ yếu là do mức độ đầu tư vốn của Nhà nước so với kế hoạch và yêu cầu nguồn vốn cho các chương trình mục tiêu giảm nghèo nói chung và tín dụng chính sách xã hội nói riêng chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa tích cực triển khai, thực hiện Chỉ thị số 40; chưa xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của tín dụng chính sách xã hội, chưa chú trọng chuyển vốn ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. Thiếu cơ chế chỉ đạo, phối hợp, lồng ghép các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động chuyển giao công nghệ, huấn luyện, đào tạo nghề với hoạt động tín dụng chính sách xã hội trong toàn quốc cũng như trên từng địa bàn, đặc biệt là địa bàn cấp xã.
Qua kết quả sơ kết 5 năm thực hiện cho thấy, nhiều quan điểm, chủ trương và nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Chỉ thị số 40 vẫn còn nguyên giá trị. Trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tiếp tục chủ động và sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp đề ra tại Chỉ thị số 40, với tinh thần khắc phục những hạn chế, yếu kém; phát huy mặt mạnh, rút ra bài học kinh nghiệm quý báu và nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến thành công, phù hợp với từng địa phương, từng lĩnh vực. Một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm cần lưu ý triển khai:
Ðối với Ðảng đoàn Quốc hội
- Sớm rà soát sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách liên quan tín dụng chính sách xã hội và các luật có liên quan nhằm huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội; tích hợp các chương trình tín dụng chính sách xã hội, tập trung nguồn lực cho các chương trình ưu tiên, tránh dàn trải.
- Xác định nội dung, nhiệm vụ, nguồn tài chính tín dụng chính sách xã hội trong quyết định đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030.
- Chỉ đạo đưa nội dung giám sát thực thi pháp luật về tín dụng chính sách xã hội lồng ghép với các chương trình giám sát hằng năm có liên quan của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội nhằm kịp thời đánh giá và có giải pháp phù hợp để tín dụng chính sách xã hội ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần thực hiện thành công các chủ trương, pháp luật của Ðảng và Nhà nước về chính sách xã hội.
Ðối với Ban Cán sự đảng Chính phủ và các bộ, ngành
- Chỉ đạo hoàn thiện cơ chế, chính sách, trong đó chú trọng tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách có nguồn gốc từ ngân sách vào một đầu mối là NHCSXH để tăng cường nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, quy định mức cụ thể một phần ngân sách địa phương ủy thác cho vay qua tín dụng chính sách; quy định quản lý, bảo toàn vốn tín dụng chính sách từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quy định cơ chế hỗ trợ cơ sở vật chất, điều kiện làm việc NHCSXH; quy định cụ thể nội dung, nhiệm vụ, nguồn tài chính tín dụng chính sách xã hội trong quyết định đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030.
- Chỉ đạo việc nghiên cứu, điều chỉnh chuẩn nghèo đa chiều cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển; khuyến khích và hướng dẫn địa phương ban hành chuẩn nghèo riêng cao hơn chuẩn nghèo quốc gia.
- Chỉ đạo việc ban hành tiêu chí phân loại và quy trình xác định đối tượng, địa bàn nghèo làm căn cứ thực hiện tín dụng chính sách xã hội.
Ðối với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
- Tiếp tục thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội trong công tác tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền, nâng cao vai trò giám sát với cơ quan quản lý nhà nước; có hình thức thích hợp để nhân dân tham gia giám sát hoạt động tín dụng chính sách.
- Tăng cường phổ biến, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác. Phát động các phong trào thi đua, gắn chất lượng hoạt động ủy thác với tiêu chí thi đua của tổ chức chính trị - xã hội, tạo động lực phấn đấu trong việc thực hiện ủy thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
- Quan tâm công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động ủy thác, công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội cấp dưới, đặc biệt trong hoạt động bình xét cho vay, đôn đốc người vay sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ, lãi ngân hàng đầy đủ, đúng hạn. Chú trọng công tác đào tạo tập huấn; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội.
- Hướng dẫn MTTQ các cấp mở rộng cuộc vận động Vì người nghèo để huy động nguồn lực bổ sung nguồn vốn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội.
- Hằng năm, đánh giá kết quả lồng ghép thực hiện nhận ủy thác với các chương trình, dự án của tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; đưa nội dung đánh giá nhiệm vụ và kết quả thực hiện ủy thác gắn với nhiệm vụ chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội.
Ðối với các cấp ủy, chính quyền địa phương
- Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, thực hiện tốt Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư và Quyết định số 401/QÐ-TTg ngày 14-3-2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với tín dụng chính sách xã hội; định kỳ, hằng năm đưa nội dung thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính sách vào đánh giá công tác của cơ quan, tổ chức.
- Hằng năm dành một phần nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để tăng cường nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn.
- Ban hành chuẩn nghèo đa chiều phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương trong từng giai đoạn và bố trí nguồn lực để thực hiện.
- Chỉ đạo xây dựng chương trình, dự án có sự gắn kết giữa đầu tư các mô hình kinh tế với nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội; đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo nghề để hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ðối với Ngân hàng Chính sách xã hội
- Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các giải pháp đề ra tại Chỉ thị số 40 theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Chủ động thực hiện tốt việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả.
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; bồi dưỡng nhân sự các cấp để thực hiện tốt chính sách tín dụng xã hội.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả phương thức ủy thác và giao dịch tại xã, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội lồng ghép có hiệu quả tín dụng chính sách xã hội với phát triển mô hình sản xuất kinh doanh và các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ đem lại tiện ích cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
- Chủ động tham mưu các bộ, ngành có liên quan, nghiên cứu đề xuất chính sách tín dụng phù hợp với từng giai đoạn, cụ thể: về mức vay, thời hạn vay, đối tượng cho vay, xử lý rủi ro và các vấn đề khác có liên quan.
- Tiếp tục nghiên cứu, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ đem lại tiện ích cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Kết quả 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40 khẳng định đây là chủ trương đúng đắn của Ðảng và Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Ðảng và Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững; xây dựng nông thôn mới; bảo đảm an sinh xã hội; ổn định chính trị, an ninh quốc phòng; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền trên cả nước. Sự mở rộng quy mô và hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội được nâng cao đã khẳng định Chỉ thị số 40 ngày càng đi vào cuộc sống.