Thương tiếc nhà thơ Vũ Cao

Nhà thơ Vũ Cao, tên khai sinh là Vũ Hữu Chỉnh. (Ông đặt bút danh lúc mới làm thơ. Vì có dáng người cao, nên ông lấy Vũ Cao làm bút danh). Vũ Cao sinh năm 1922 tại xã Liên Minh, (Vụ Bản, Nam Ðịnh), trong một gia đình nhà nho nghèo. Cụ thân sinh nhà thơ là một trong những người thi hương vào khóa cuối cùng.

Thuở nhỏ, Vũ Cao học ở cha và học ở nhà trường. Cách mạng Tháng Tám thành công, cùng với bạn bè, Vũ Cao đi ca hát, vẽ tranh tuyên truyền, dạy bình dân học vụ... nghĩa là làm bất cứ việc gì cách mạng cần - làm một cách hồn nhiên, hăng say, sôi nổi.

Sau đó, ông nhập ngũ, làm báo Chiến sĩ Quân khu 4.

Và từ bấy giờ cho đến suốt cuộc đời hoạt động của mình, làm báo là công việc chủ yếu của Vũ Cao; từ báo Vệ quốc quân (trung ương) đến báo Quân đội Nhân dân,  rồi tạp chí Văn nghệ quân đội. Mấy năm cuối, ông là Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam, và là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Cùng với việc làm báo, Vũ Cao viết văn và làm thơ. Ông viết không nhiều lắm. Tác phẩm chính của Vũ Cao ở lĩnh vực văn xuôi, có hai cuốn truyện viết cho thiếu nhi (Em bé bên bờ sông Lai Vu - 1960, Anh em chàng Lược - 1965), hai tập truyện ngắn (Truyện một người bị bắt - 1958, Từ một trận địa  - 1973)  và một cuốn tiểu thuyết (Những người cùng làng - 1960). Về thơ, ông đã in ba tập vào những  năm 1962, 1973, 1990. Ðôi khi, Vũ Cao có viết tiểu luận, phê bình, và có lần còn tham gia làm phim Dưới cờ quyết thắng, bộ phim đầu tiên của Xưởng phim Quân đội Nhân dân.

Hầu hết tác phẩm của Vũ Cao viết về đề tài chiến tranh - đề tài gần gũi, gắn bó với ông gần hết cuộc đời, trong tư cách một  người lính. Ðặc điểm rõ nhất trong các tác phẩm của Vũ Cao là tính chân thật. Ông luôn muốn làm sao phản ánh cho đúng hiện thực của chiến tranh, của cách mạng. Có khi, tính hiện thực kết hợp hài hòa với chất lãng mạn làm nên một tác phẩm có phong vị lạ như Một đoạn thơ sông Ðà - truyện ngắn mà đầy chất thơ. Còn thơ Vũ Cao thì giản dị, thâm trầm, nhẹ nhàng và rất quê, trên đường trở lại đơn vị công tác, ông thấy Mấy đàn chim sẻ, chim ri - Tiễn chân tôi - đã bay về - lại lên! (Còi tàu); những nét bình thường trong hiện thực kháng chiến thời chống thực dân Pháp được Vũ Cao ghi lại bằng những câu thơ có dư vị: Nghe tin bộ đội chờ đò - Bờ sông, con máng tiếng hò dân công - Lại nghe sông gió bập bùng - Vẫn nghe tiếng súng bên vùng Vĩnh Yên - Quán khuya thức giấc lên đèn - Chờ tin, cánh liếp ngoài hiên hé chờ (Ánh đuốc). Nhìn người lính gác cầu (thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước) trong  đêm khuya, nhà thơ thấy anh Như bức tượng vươn cao - Trên trời mây bạc - Gió sông một bóng, một mình! (Anh đẹp lắm).

Một triết lý, với cách nghĩ của Vũ Cao, không có gì giản dị hơn, thiết thực hơn: Ta đã từng đói no - Nên quý từng hạt gạo - Ta chịu rét nhiều lần - Nên thương từng manh áo (ghi trên đường đi). Dưới con mắt Vũ Cao, Người gác cầu (thời kháng chiến chống Mỹ) có một cảm nhận thật tinh tế, đằm thắm: Những chiếc xe từ bắc đi về xuôi - Tiếng máy gọi nhau như thể tiếng người - Khẩu pháo rẽ nghiêng, nòng còn ngoảnh lại - Như cánh tay chào tạm biệt sông trôi...

Tuy nhiên, Núi Ðôi mới tập trung hết tinh hoa thơ Vũ Cao, mới là bài thơ làm nên tên tuổi Vũ Cao. Người đọc nhắc đến Vũ Cao là nhớ ngay đến Núi Ðôi, nhắc đến Núi Ðôi là nhớ ngay đến Vũ Cao. Nửa thế kỷ nay, bài thơ được in đi in lại dễ đến trăm lần; trong nhà trường đã từng là đề bài cho học sinh học và thi.

Dưới hình thức kể chuyện với một giọng thơ bảy chữ cổ điển, qua một câu chuyện cụ thể, nhà thơ đã ghi lại một điển hình thời chiến: có mất mát, có đau xót, nhưng có vinh dự, có tự hào, và sau cùng vẫn là một tương lai tốt đẹp cho xóm, làng, cho nhân dân, cho Tổ quốc mà mình hết mực yêu thương. Qua lời thơ Vũ Cao, quê hương đất nước chúng ta thật tươi đẹp, con người chúng ta cực khổ và anh hùng. Thật cô đọng trong bốn câu thơ viết về cảnh làng quê bị giặc tàn phá: Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối - Xuân Dục đoài, đông cỏ ngút dày - Sân biến thành ao, nhà đổ chái - Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay. 

Thật xúc động, những câu thơ viết về tình cảnh người dân trở lại làng quê ngay sau ngày hòa bình: Cha mẹ dìu nhau về nhận đất - Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau - Nứa gianh nửa mái lều che tạm...

Câu thơ xác nhận lòng chung thủy của cô gái được ẩn một cách tinh tế qua lời kể của những người cùng làng: Mấy năm cô ấy làm du kích - Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.  Thật thấm thía nỗi đau xót: Anh ngước nhìn lên hai dốc núi - Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen - Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói - Núi vẫn đôi, mà anh mất em. Rất cần nhấn mạnh, là nói về tổn thất, hy sinh mà Núi Ðôi không hề yếu đuối, bi quan. Bài thơ xác nhận một quy luật trong văn chương: vấn đề quyết định không phải là viết về cái gì, mà là viết như thế nào.

Người viết những dòng này đã mấy lần được cùng nhà thơ Vũ Cao trở lại vùng núi Ðôi, thăm cảnh và người nơi đây; đã cùng nhà thơ lên đỉnh núi, nơi còn cả một hầm ngầm kiên cố mà thời kháng chiến chống thực dân Pháp có đến cả tiểu đoàn lính Âu Phi án ngữ, khống chế một vùng rộng cùng với các vị trí khác của chúng ở gần đó. Cán bộ các cơ quan huyện Sóc Sơn, từ huyện ủy, đến UBND huyện thay đổi qua từng thời kỳ, nhưng ai cũng kính trọng tác giả Núi Ðôi, thỉnh thoảng lại mời ông về thăm. Nhân dân vùng này coi Vũ Cao như người thân, coi Núi Ðôi như bài thơ viết riêng cho quê hương mình, mặc dù ý nghĩa và tác động của nó rộng và lớn hơn nhiều.

Như đã nói, Vũ Cao viết văn không nhiều lắm. Một phần, vì khi làm báo, ông phải viết nhanh, viết vội để đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ thời chiến. Một phần, vì có một thời gian dài ông làm quản lý ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi ở Nhà xuất bản Hà Nội. Riêng với Văn nghệ quân đội, Vũ Cao ở hơn hai chục năm, từ một biên tập viên đến Phó Tổng Biên tập và Tổng Biên tập. Ông đã cùng với nhà văn Từ Bích Hoàng (Phó Tổng Biên tập) - người bạn rất thân từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp - "hy sinh" công việc sáng tác của riêng mình, chăm lo cho tờ tạp chí văn học nghệ thuật của các lực lượng vũ trang, và bồi dưỡng, giúp đỡ những người viết văn trẻ đang trong và ngoài quân đội. Nhiều cây bút nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã trưởng thành từ những sáng tác đầu tay đăng trên tờ tạp chí này.

Mấy năm trước, khi sức khỏe chưa suy giảm, nhà thơ Vũ Cao có lần tâm sự: Gia đình mình mấy đời không ai sống lâu được  như mình! Bây giờ thì nhà thơ đã ra đi, vào tuổi 85 (tính theo dương lịch) trong một đêm mùa đông Hà Nội giá lạnh. Xin nhà thơ Vũ Cao hãy thảnh thơi yên nghỉ. Ông có thể an tâm rằng, ông đã có những cống hiến xứng đáng cho cách mạng, cho nhân dân, cho báo chí, cho văn học.

Có thể bạn quan tâm