Thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng vật liệu xây dựng

Thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng vật liệu xây dựng

Thực tế, bản thân thị trường, nhất là thị trường không có sự quản lý chặt chẽ hoạt động có những "luật chơi" riêng của nó, rất phức tạp. Với hệ thống các cơ quan quản lý trong tổ chức của bộ máy nhà nước các cấp, với hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành, với đội ngũ cán bộ dù có được đào tạo chính quy và có hệ thống, hẳn chúng ta khó lòng nắm và dự báo hết số biến động của thị trường. Trước hết là giá cả và chất lượng vật liệu, thiết bị (trong đầu tư-xây dựng nói riêng), mà không chỉ dừng lại trên yếu tố giá cả. Loại vật liệu xây dựng được dùng chủ yếu trong công trình là đá, cát, thép... thì cho đến bây giờ chưa có địa phương nào nắm chắc cách xác định để có giá chính xác hằng tháng. Hàng loạt cơ sở sản xuất, khai thác nguyên, vật liệu xây dựng là giá thành, giá cả đã khác nhau rồi, quy cách và chất lượng cũng vậy. Hiện nay làm gì có đá 1x2 đúng quy cách ở các công trình xây dựng, bởi càng phân loại chính xác, nhà sản xuất càng khó kiếm lời.

Thực tế cho thấy càng không đúng quy cách, giá thành càng rẻ, lợi nhuận càng cao và hậu quả thì bản thân tuổi thọ công trình lãnh đủ, mà công trình thì lại không thể tự thân báo động, kêu cứu được. Trên thực tế, chúng ta không phân biệt được đá cấp phối 1-4 với đá xô bồ (lộn xộn, đủ thứ), nhưng đơn giá lại phân biệt và chênh lệch rõ. Với giá đá cấp phối được thừa nhận cao hơn, thì không ai "dại" gì lại sử dụng đơn giá xô bồ trong thanh toán.

Tương tự, trong thực tế sẽ không có đơn vị cung cấp, khai thác cát nào đã định kỳ kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình; các cỡ hạt cát khô có nằm trong phạm vi tiêu chuẩn quy định để đổ bê-tông, để xây, để tô trát...? Hàm lượng tạp chất có bị khống chế để gọi là bảo đảm chất lượng sản phẩm? Nhất là khi phải thay đổi liên tục vị trí khai thác của mình!

Hàng loạt mẫu thử về cường độ, độ dẻo của thép xây dựng được thực hiện tại Ðại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh trong năm năm gần đây, cho thấy có quá nhiều sản phẩm thép không đạt yêu cầu, cả về đường kính chuẩn, lẫn cường độ và độ dẻo (đàn hồi). Cường độ thép thì lại thay đổi khá nhiều trong tiêu chuẩn (CI đến CIII, AI đến AIII là những loại thông dụng nhất) nhưng đơn giá thép ban hành hằng tháng ở các địa phương lại chỉ duy nhất một mà thôi.

Tồn tại này trong một thời gian dài vẫn chưa khắc phục được và hầu như chúng ta chấp nhận sự dễ dãi, tính chưa khoa học của mình, trong việc quản lý và kiểm soát đơn giá vật liệu xây dựng (VLXD). Chúng ta mới điểm một nhóm VLXD chủ yếu đã như thế, thì nhiều loại thứ yếu khác, bất cập tồn tại là lẽ đương nhiên.

Do vậy, vấn đề được đặt ra nghiêm túc ở đây là việc quản lý giá không thể và không tách khỏi việc quản lý chất lượng sản phẩm. Mỗi đơn giá phải được xác định cùng với những chỉ tiêu, đặc trưng, tính năng hay phù hợp một tiêu chuẩn nào đó rõ ràng, có sự phối hợp kiểm tra chặt chẽ, định kỳ của những cơ quan liên quan. Ðiều này rất có lợi cho công cuộc đổi mới, hòa nhập kinh tế của nước ta với khu vực và quốc tế trong thời gian tới và chí ít cũng là để bảo vệ quyền lợi người tiêu dụng, bảo vệ đồng vốn ngân sách trong đầu tư - xây dựng.

Cách xác định đơn giá cho mỗi loại vật tư hiện nay chưa thật khoa học, nhất là khi "trận địa" hàng VLXD quá đa dạng, quá nhiều nhà sản xuất, chất lượng lại khác nhau nhiều. Chỉ đơn cử một thí dụ về bàn cầu, dụng cụ điện gia dụng của cùng một nhãn hiệu, đã là phức tạp, làm sao có thể tính giá đến hiện trường xây lắp cho mỗi thứ? Và nếu đơn giá ban hành quá thiếu chủng loại (thực tế như vậy) thì những đơn giá thiếu ấy, khi cần phê duyệt dự toán sẽ dựa vào đâu? Nếu dựa vào bảng báo giá của đơn vị sản xuất hay đại lý bán hàng, thì chúng ta chưa có biện pháp khả thi để bảo đảm những bảng báo giá có độ tin cậy cần thiết.

Lý do là trong bảng báo giá ấy thường xuyên có những tỷ lệ chiết khấu cao (thậm chí đến 25%) một hình thức của thất thoát trong xây dựng và phê duyệt tức là chấp nhận những tỷ lệ này vì những công trình tương tự sau đó sẽ được phê duyệt tiếp! Nếu dựa vào bảng báo giá nêu trên, thì khi sản phẩm chỉ có một đại lý độc quyền, một thương hiệu duy nhất, bắt buộc phải chấp nhận giá khai báo của họ chứ không còn cách nào khác.

Thế là nguy quá rồi. Về vấn đề này, cần có sự nghiên cứu và học tập cách quản lý của các quốc gia trong khu vực. Thời điểm đi "lấy" giá trong tháng là lúc nào và đặc biệt là chi phí để đi lấy được hạch toán ra sao? Nhất là khi có quá nhiều loại giá phải nắm, ở quá nhiều nơi, thậm chí ở những địa phương khác, khá xa nữa?

Tại thành phố, một số đơn giá có được nhờ quen biết, hỏi qua điện thoại... vì đi không đủ chi phí, thời gian, nhân lực... nên độ chính xác của các đơn giá thu thập được thường không cao. Bản thân thông tư liên bộ số 03/TT-LB (1996) đang có hiệu lực cũng không ràng buộc "chất lượng" công việc, khi lấy giá không chính xác, không tách được tỷ lệ chiết khấu... làm thiệt hại ngân sách, thì ra sao?

Trong thực tế vẫn hiểu ngầm và chấp nhận tỷ lệ chiết khấu này tức là chấp nhận thất thoát trong xây dựng cơ bản! Cho nên, những văn bản định giá VLXD các địa phương đã ban hành định kỳ hằng tháng, nó vẫn bao hàm những bất cập đã nêu trong đó.

Chúng ta cần thoát dần khỏi việc làm hình thức này bằng cách hành xử khoa học, khả thi, phù hợp cơ chế  thị trường. Bản thân mỗi chủng loại vật liệu cũng còn nhiều bất cập về giá ở bên trong: nếu chỉ ghi gạch Ceramic 300x300 của hãng X, thì giá vẫn cứ chênh lệch nhiều, do tùy văn hoa, chất lượng sản phẩm (loại 1, 2...); nếu chỉ ghi bàn cầu bệt của hãng B thì cũng có hàng chục loại khác nhau, giá có thể gấp từ hai đến bốn lần... Ðương nhiên, nhà thầu sẽ chọn loại "rẻ nhất" nếu không có sự rõ ràng ngay từ đầu (cả ở công trình có đấu thầu lẫn chỉ định thầu) và sự thất thoát vốn một phần cũng từ đây.

Nếu không xác định chính xác giá cả từng loại vật liệu xây dựng thì sẽ xảy ra tình trạng doanh nghiệp làm dối, đánh tráo vật liệu giá rẻ thay vào loại vật liệu giá cao theo tiêu chuẩn thiết kế, được coi là tiết kiệm, có tiến độ xây dựng nhanh sẽ được coi là có uy tín, năng lực cạnh tranh cao thì quá nguy hiểm.

Do vậy, cần có những quy định bắt buộc phải chỉ định rõ quy cách, chủng loại, mã hiệu VLXD trong bản vẽ thiết kế, theo đó là vận hành thật tốt các quy chế tạo cơ sở cho việc xem xét giá, nghiệm thu về sau một cách chính xác, công minh.

Có thể bạn quan tâm