Thử lý giải nguyên nhân của các cuộc tranh luận văn học

Vài năm trở lại đây, dường như chỉ sau một khoảng thời gian là văn đàn Việt Nam lại rộ lên một cuộc tranh luận về một tác phẩm văn chương, hay một vấn đề học thuật nào đó thuộc về văn chương. Sẽ là bình thường trong đời sống văn học nếu các cuộc tranh luận xuất hiện trên cơ sở những ý tưởng mới, những nhận thức - phản ánh mới. Song nếu theo dõi một cách sát sao và triệt để, rất dễ nhận ra các cuộc tranh luận chủ yếu tập trung vào một số đề tài vốn không còn xa lạ đối với lịch sử văn học, ví dụ như: thế nào là "cái mới" trong văn chương, vai trò của yếu tố "sex" trong văn chương, nhà văn có phải là một chủ thể tự do trong hoạt động sáng tạo... Ðặc biệt, dẫu là tranh luận về một tác phẩm cụ thể, một loại hiện tượng, hay một nội dung học thuật thì hầu như chưa có nơi nào đưa ra một kết luận (dù là kết luận còn để ngỏ). Tình trạng đó không chỉ làm cho văn giới mà còn làm cho cả bạn đọc không thỏa mãn, nếu không nói là thất vọng hoặc hoang mang.

Mấy chục năm chiến tranh, để hoàn thành nhiệm vụ tham gia vào hai cuộc kháng chiến, trong văn chương - văn học Việt Nam đã hình thành một cách tương đối ổn định hệ thống các tiêu chí trong sáng tác và thẩm định. Thực tế kháng chiến đặt ra trước nhà văn yêu cầu phải làm thế nào để tác phẩm vừa phản ánh một cách tốt nhất về cuộc sống và chiến đấu của dân tộc, vừa cổ vũ toàn dân tham gia vào cuộc chiến đấu đó.

Sau chiến tranh, đặc biệt là từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, xã hội và con người Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới và bắt đầu có những biến đổi, thậm chí xuất hiện những hiện tượng hoàn toàn mới mẻ. Không có cách nào khác, nhiệm vụ của văn chương là phải nhận thức và phản ánh mọi mặt sinh động, phức tạp và đa dạng của những biến đổi này để có thể đáp ứng được các đòi hỏi của cuộc sống. Chính lúc này, khi mà hệ thống tiêu chí sáng tác và thẩm định cũng cần thiết phải vận động phát triển, thì dường như trong đội ngũ nhà văn, số tác giả có sự chuẩn bị tốt về văn hóa để có thể thích ứng và có khả năng khám phá - phản ánh sự biến đổi là không nhiều.

Nếu như trong khi không ít nhà văn lớp trước, hoặc tập trung khai thác các vấn đề xã hội - con người của quá khứ, hoặc cố theo kịp với cuộc sống một cách miễn cưỡng, thì các nhà văn trẻ, dẫu có điều kiện tiếp xúc, tiếp thu một số thành tựu của văn minh hiện đại, song do sự tiếp xúc, tiếp thu đó không dựa trên nền tảng văn hóa đầy  đặn nên nhiều người chỉ sáng tác theo những đề tài cập nhật, thời sự của thế hệ họ mà trở nên dễ ngộ nhận về cái mới, dễ hẫng hụt khi cần phải nhìn về quá khứ...

Bằng cách này hay cách khác, nhà văn Việt Nam hiện tại đang phải "tập làm quen" với kinh tế thị trường - nơi có khả năng biến tác phẩm văn chương thành sản phẩm hàng hóa, biến bạn đọc không còn là người thưởng thức thuần tuý mà đã trở thành một kiểu "thượng đế" có tính cách là người tiêu dùng.

Làm văn chương và mưu sinh trong những điều kiện đã khác trước, nếu nhà văn không tỉnh táo và có bản lĩnh, họ hoàn toàn có thể xa rời thiên chức để chạy theo các lợi ích thực dụng, làm ra các sản phẩm văn chương câu khách, từ đó xuất hiện loại tác phẩm "bị" phê phán. Với trường hợp này, còn phải kể tới một số cây bút trẻ, không những do thiếu chuẩn bị về văn hóa để xác lập năng lực phân biệt nên và không nên trong văn chương, họ còn thiếu vắng cả khả năng phân biệt sự khác nhau giữa các giá trị đạo đức có vai trò giúp con người "thật sự trở thành người" với những giá trị đạo đức có khả năng "tha hóa" con người, do đó tác phẩm của họ đã không hàm chứa trong đó những ý nghĩa vốn đã đang được xã hội đồng thuận.

Về mặt lý luận cũng vậy, trong điều kiện cuộc sống và tác phẩm văn chương đã có những biến chuyển, theo logic của quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, lẽ ra lý luận văn học ở Việt Nam phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào nội hàm các khái niệm, các phạm trù những nội dung mới (thậm chí có thể là xây dựng một hệ thống lý luận mới trên cơ sở kế thừa) để từ đó cung cấp công cụ lý thuyết mới cho phê bình, thì công việc này đã được tiến hành một cách quá chậm trễ, nếu không nói là mới nhúc nhích. Ðiều này dẫn tới tình trạng, lý thuyết đã có, trong nhiều trường hợp tỏ ra lỗi thời, lý thuyết tiếp nhận từ nước ngoài lại chưa có chỗ "đứng chân" trong đời sống học thuật, và cứ thế, tình trạng "dở mới, dở cũ" thêm kéo dài và làm nảy sinh các cuộc tranh luận ở trong tình thế "không ai chịu ai".

Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là sự xuất hiện của loại quan niệm "cấp tiến, cực đoan" trong sáng tác và đánh giá văn học. Nhân danh đổi mới, các tác giả cổ vũ cho quan niệm này không chỉ truyền bá mà còn sử dụng nó như là công cụ phê bình, hoặc để tung hô một số tác phẩm đi ngược lại với quan niệm chung, hoặc sử dụng như là "thước đo" đối với những tiêu chí văn học đã và đang còn có ý nghĩa xã hội nhằm dựng nên một giả vấn đề về "cấp tiến" và "bảo thủ".

Thêm vào đó, cần phải nhắc tới vai trò của báo chí, trong nhiều trường hợp (không rõ do vô tình hay cố ý?) đã trực tiếp làm nên các "sự cố văn chương" không đáng có... Rồi nữa là với bạn đọc, ngày nay nhu cầu, trình độ và năng lực thẩm định của họ cũng khác trước. Họ cũng có nhiều điều kiện thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ hơn, họ không phải là bạn đọc thụ động và xã hội cũng bảo đảm cho họ quyền được lên tiếng trước tác phẩm...

Tất cả những hiện tượng trên đây (và có thể còn có những nguyên nhân khác nữa?) đã đẩy tới tình trạng "nhiễu loạn" các tiêu chí sáng tác và đánh giá văn học. Và phải nói rằng tình trạng này có phần trách nhiệm của các cơ quan tổ chức, quản lý. Sự chậm trễ trong khi chỉ đạo, nắm bắt, xử lý các vấn đề của thực tế văn chương đã góp phần đẩy tới các hành vi văn học - văn chương tự phát trong điều kiện đáng lẽ hành vi tự giác phải là yếu tố chủ đạo trong hoạt động thực tiễn của con người nói chung và nhà văn nói riêng.

Tóm lại, không thể chậm trễ hơn được nữa, trước thực trạng văn học - văn chương nước nhà. Ðã đến lúc cần có hành động cụ thể, thiết thực của các nhà văn và các cơ quan hữu quan để không chỉ "xốc lại" mà còn tạo ra điều kiện đưa văn học - văn chương bước vào một thời kỳ mới với những thành tựu mới.

Có thể bạn quan tâm