Thêm hai di cảo của dòng văn họ Nguyễn Huy được xuất bản

Vào khoảng thời gian giữa thế kỷ 18 - nửa đầu thế kỷ 19, ở Việt Nam đã xuất hiện khá nhiều dòng tộc văn chương trong văn học như dòng văn họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai, dòng văn họ Nguyễn ở Tiên Điền, dòng văn họ Phan Huy ở Thạch Hà - Sài Sơn và dòng văn họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu.

Các danh gia bên cạnh sự hiển đạt về khoa hoạn thì thường có sự nghiệp trước tác văn học, tạo thành dòng chảy truyền nối thế hệ.

Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789), thân sinh của Nguyễn Huy Tự, húy Xuân, tự Kính Hoa, hiệu Lựu Trai và Thạc Đình, sinh ở làng Trường Lưu nay là xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 20 tuổi, ông đỗ đầu kỳ thi  hương và được bổ làm tri phủ Trường Khánh. Ít lâu sau từ quan, về dốc chí học hành, năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748) ông đỗ Đình nguyên Thám hoa, làm Hàn Lâm viện đãi chế.

Năm 1757, ông được cử làm giám khảo kỳ thi hội, thăng nhập nội thị giảng kiêm Quốc Tử Giám tư nghiệp. Năm 1765, ông được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Lúc về được thăng Công bộ Hữu thị lang, năm 1775 làm đến chức Đô ngự sử ở Ngự sử đài, Công bộ thượng thư. Ông là một nhà giáo xuất sắc dạy hàng trăm học trò, trong đó có đến gần 30 người đỗ tiến sĩ.

Nguyễn Huy Oánh làm quan vào những năm cuối của triều Lê, là một ông quan có nhiều công trạng, một nhà sư phạm có nhiều công lao.

Đặc biệt, ông lập Thư viện Phúc Giang chứa hàng vạn quyển sách, ảnh hưởng của Phúc Giang thư viện rất lớn. Năm 1783 triều đình phong cho ông tước vương, triều Nguyễn nhiều lần truy phong ông làm "Phúc Giang thư viện uyên bác chi thần" và Phúc Giang thư viện trở thành Đền thư viện thờ một vị thần có công với văn hóa.

Thêm nữa, Nguyễn Huy Oánh còn là một tác gia quan trọng của thế kỷ 18 với sự nghiệp trước tác khá đồ sộ. Ông từng soạn thuật, sáng tác hơn 40 tác phẩm trên nhiều lĩnh vực từ sử học, triết học, đến địa lý, văn học, y học ... và trở thành tác gia mở đầu của dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu.

"Tuyển tập thơ văn Nguyễn Huy Oánh" được xuất bản lần này mới là tuyển tập nhỏ trong di cảo đồ sộ của ông.

Sách tuyển chọn và dịch từ hai tác phẩm của Nguyễn Huy Oánh: Phụng sứ Yên kinh tổng ca (Thư viện Hán Nôm A 373) và Thạc Đình di cảo. "Phụng sứ Yên kinh tổng ca" là tập thơ được sáng tác khi Nguyễn Huy Oánh làm chánh sứ phái đoàn sứ bộ sang nhà Thanh vào các năm Ầt Dậu, Bính Tuất (1765 - 1766). Tên đầy đủ là “Phụng sứ Yên kinh tổng ca tịnh nhật ký”, nghĩa là bên cạnh bài tổng ca ở đầu sách, còn hơn 120 bài thơ chữ Hán kèm theo các lời chỉ dẫn ghi theo thể nhật ký hành trình từ Việt Nam sang Yên Kinh (Bắc Kinh) và ngược lại.

Đáng chú ý là bài tổng ca gồm 470 câu thơ lục bát chữ Hán, thuộc loại những sáng tác quy mô đầu tiên theo thể này trong văn học dân tộc. Nhóm tác giả đã chọn dịch bài tổng ca và 26 bài thơ trong phần nhật ký.

"Thạc Đình di cảo" (Thư viện Hán Nôm A 3133), là tập thơ thứ hai của Nguyễn Huy Oánh do cháu nội của nhà thơ là Nguyễn Huy Vinh sưu tập, biên chép, gồm một số bài phú, khảo, tự ký, tản văn và 127 bài thơ.

Nhóm tác giả đã chọn 37 tác phẩm khá đặc sắc, về phần thơ như bài tám cảnh đẹp ở Trường Lưu, hai bài gửi Nguyễn Thiếp; về phú có bài "Phú quy lai"; đặc biệt bài khải xin từ chức tham tụng, giúp độc giả hiểu rõ và đánh giá khá chính xác về Nguyễn Huy Oánh, một cây đại thụ trong vườn văn hóa vùng Nghệ Tĩnh. Nguyên văn chữ Hán cũng được các tác giả trình bày đầy đủ.

Tập sách thứ hai là tập Nguyễn Huy Vinh với “Chung Sơn di thảo” dày 392 trang.

Nguyễn  Huy Vinh (1770 - 1818) sinh tại kinh kỳ Thăng Long ngày 28 tháng Chạp năm Kỷ Sửu (đầu 1770), húy Lung, tự Hy Nhân, hiệu Phục Trai tiên sinh và Chung Sơn cư sĩ. Ông là cháu nội của Nguyễn Huy Oánh, là con thứ hai của nhà thơ Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790) và bà Nguyễn Thị Bành (1750 - 1773).

Sau khi mẹ mất, ông về ở với bà nội ở quê Trường Lưu, được tập ấm, tức Trà Lĩnh bá. Lớn lên, học rộng tài cao nhưng ông không ra làm quan, suốt đời chỉ ẩn cư và dạy học (ở vùng Chung Sơn, Nam Đàn, Nghệ An, vùng quê Bác Hồ). Vua Minh Mạng hai lần triệu ông ra làm quan, nhưng ông vẫn cương quyết ẩn cư, hiện nhà thờ ông còn biển "Ngự tiền đặc tử xuất thân, Hoàng triều trưng sĩ lang" do vua Minh Mạng ban. Ông mất năm Mậu Dần (1818), thụy là Văn Nhã.

Tác phẩm của Nguyễn Huy Vinh có: tham gia chép tiếp "Phượng Dương Nguyễn tông thế phả", biên chép Thạc Đình di cảo của ông nội, biên soạn Nguyễn Thị gia tàng; và có một tập thơ văn nhan đề Chung Sơn di thảo do người con trai thứ là Nguyễn Huy Toản (1819 - ?) sưu tập.

”Chung Sơn di thảo” được người biên tập sắp xếp thành 9 phần : 26 bài thơ, 2 bài phú, 4 bài tựa, 7 bức thư, 3 bài ký, 1 bài bạt, 1 bài văn tế, 1 truyện và 9 bài tạp văn. Tổng số có 54 đơn vị tác phẩm, gần như đủ các thể loại của văn học cổ. Trừ bài Hải đường dẫn viết bằng thơ lục bát chữ Nôm, còn lại hoàn toàn viết bằng chữ Hán.

Việc xuất bản hai tập sách trên, với sự biên soạn, chú giải công phu, không những làm giàu thêm nguồn tư liệu văn học sử nước nhà mà còn góp phần quan trọng để giải quyết một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu văn học; làm rõ thêm một giai đoạn lịch sử đầy biến động phức tạp vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, hiểu thêm quan hệ, tư tưởng của các danh sĩ thời đó như Nguyễn Thiếp, Nguyễn Du...

Có thể bạn quan tâm