Thế Lữ và con trai và... "Thánh đường sân khấu"

NSND Thế Lữ
NSND Thế Lữ

Cha thuộc nửa trước thế kỷ XX, khi đạo diễn kịch ở Việt Nam chưa thành một nghề. Cha vừa là người sinh thành vừa là khởi nguồn của nghề đạo diễn mà con trai theo suốt đời. Và cả hai cha con đều thành hai "con chiên" ngoan đạo nhất của "Thánh đường sân khấu".

Tự mình mày mò học nghề, nên Thế Lữ không coi mình là đạo diễn, ông gọi mình là nhà dàn cảnh. Thuộc về nửa sau của thế kỷ XX, Nguyễn Ðình Nghi đã hoàn tất giấc mơ nghề nghiệp của cha. Nguyễn Ðình Nghi được đào tạo chính quy, bài bản về nghề đạo diễn ở Trung Quốc, và sau đó đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ sân khấu, với đề tài: Những nguyên tắc cơ bản của sân khấu cổ truyền Việt Nam, tại Ðại học sân khấu Lunatraxki (Liên Xô cũ) Nguyễn Ðình Nghi đã trở thành một đạo diễn xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX.

 

NSND Nguyễn Đình Nghi

Có thể nói, cả hai cha con đạo diễn NSND Thế Lữ - Nguyễn Ðình Nghi đã có duyên kỳ ngộ với sân khấu Việt Nam hiện đại, để kết thành bộ ba thiêng liêng của một thứ tôn giáo sân khấu: Cha và Con và "Thánh đường sân khấu".

Thế Lữ nhà báo, nhà văn, nhà thơ... và nhà sân khấu

Thế Lữ là kết quả một mối tình lãng mạn giữa bố ông - một ký ga xe lửa với mẹ ông là cô gái Hải Phòng theo Thiên chúa giáo. Bố ông lên Lạng Sơn, mang theo ông còn đỏ hỏn, lấy vợ chính thất, mà ông gọi là u. Xa mẹ thăm thẳm, ở Lạng Sơn với bà nội, cha đẻ và u, Thế Lữ (tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907, tuổi Mùi) khi còn bé xíu, đã sớm mơ màng...

Ở xứ Lạng cho đến năm 11 tuổi mới được về với mẹ đẻ ở Hải Phòng, Thế Lữ sống hoang dã từ bé, như một con dê núi (lời bà nội ông nhận xét). Xứ Lạng heo hút, toàn núi non, đầy những chuyện ma quỷ, săn bắn tàn bạo, giết hổ, giết gấu, xử bắn nghĩa quân Ðề Thám, rồi chuyện lính khố xanh, khố đỏ bắn giết tù nhân... đã in đậm trong tâm hồn non dại của Thế Lữ hồi thơ bé. Thế là xứ Lạng, nơi mây nước cây rừng, nước non thanh sạch đã trở thành thế giới ấn tượng đầu tiên về cái Ðẹp của Thế Lữ, với những ấn tượng đầu tiên: vừa lãng mạn hoang vu, vừa ngây ngất sợ hãi.

Với những ấn tượng ấy, ông đến với Thơ mới, như một thi sĩ tiền phong. Thi đàn Thơ mới những năm đầu thế kỷ XX, giữa các thi nhân đầy tài năng: Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Tế Hanh... Thế Lữ là một thi nhân đặc sắc. Cùng với tập thơ đầu Mấy vần thơ xuất bản 1935, Thế Lữ đã là người đầu tiên khơi nguồn cảm xúc cho một dòng thơ tươi trẻ, bồng bột và lãng mạn.

Cõi thơ của Thế Lữ trong vắt với những khoảng trời mùa thu "mây bay... gió quyến", vài "cánh hạc trắng" mải miết "bay về Bồng lai", của một "thuở ban đầu lưu luyến" đã hóa thành nghìn năm tưởng niệm, của Tiếng sáo Thiên Thai dìu dặt, của lòng người về cõi mộng tiên thanh sạch không bám chút bụi trần...

Thỏa lòng miêu tả cái Ðẹp trong thơ, khai sáng Thơ mới, trở thành người thứ sáu trong văn phái Tự Lực Văn Ðoàn (sau anh em dòng họ Nguyễn Tường: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Ðạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và nhà thơ trào phúng Tú Mỡ.

Nhưng Thế Lữ không dừng ở đó. Ông tiếp tục nhìn ngắm cái Ðẹp ở một góc nhìn khác: Tất cả những ấn tượng về xứ Lạng của ông được phát sáng trong một thể loại văn xuôi, mà ông cũng là người đi tiên phong. Thể loại "Trinh thám An nam" với những truyện đầy ly kỳ, hồi hộp: Vàng và máu (1934), Bên đường Thiên Lôi (1936), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941).

Và nữa, Thế Lữ còn là tác giả của những truyện ngắn kiểu "lãng mạn đường rừng" mà ông đã như vô tình hái lượm trên các nẻo đường lang bạt: Một đêm trăng, Vì tình, Câu chuyện trên tàu thủy, Mau trí khôn, Một người say rượu, Câu chuyện đường rừng...

Nhưng cuối cùng, Thế Lữ ngộ ra rằng: thơ, truyện, báo chí...  đối với ông là không đủ đầy để miêu tả một cái Ðẹp hữu hình. Thế Lữ đã đủ nhẹ lòng để rời bỏ Thơ (khi Thơ mới đã đi vào ngõ cụt), khi tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn đường rừng đã nhạt phai, cũ kỹ, và ngay cả các bài báo cũng trở nên chật hẹp, bức bối so với chí tang bồng văn nghệ của ông.

Vì thế, Thế Lữ đã bỏ hết lại sau lưng để đến với kịch nghệ, một cõi nghệ thuật mới mẻ, hữu hình. Thể loại kịch, do đó rất vừa vặn với niềm say mê khám phá cái mới lạ, thường xuyên cư ngụ và đốt cháy lòng ông. Hơn thế nữa, thể loại kịch còn vừa đủ để ông thâu góp cùng lúc vẻ đẹp tinh túy của tất cả những lĩnh vực văn chương mà ông từng trải.

Rốt cuộc, Thế Lữ đã làm kịch với  con  mắt  và  tấm  lòng  của nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà mỹ thuật. Những ban kịch của ông lần lượt ra đời: Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ. Những hoạt động dàn cảnh và biểu diễn kịch của Thế Lữ lừng lẫy tiếng tăm trên sân khấu Hà Nội những năm 30 đến 40 thế kỷ trước, và Thế Lữ đúng là có công "Việt Nam hóa" một thể loại sân khấu rất Tây Phương, đó là thể loại kịch, và ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho một thánh đường sân khấu Việt Nam.

Nguyễn Ðình Nghi - sản phẩm nghệ thuật của Thế Lữ

Từ khi chưa về cõi, NSND đạo diễn Nguyễn Ðình Nghi đã không phản đối khi tôi cho rằng chính Nguyễn Ðình Nghi cũng là một sản phẩm nghệ thuật mà cha ông đã tạo tác trong cuộc hạnh ngộ với cái Ðẹp của nghệ thuật sân khấu.

Năm 1982, lần đầu tiên đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Ðình Nghi tưởng như nhận ra một góc phố quen thuộc, ông thấy nhà thờ Ðức Bà vừa như bé hơn vừa như to hơn như đã được miêu tả trong tiểu thuyết của Victor Hugo. Và ông cũng thật áy náy vì sao mà ông lại không hề yêu thích tháp Effel. Ông tâm sự với V. Colin - người đạo diễn Pháp đã qua ông mà phải lòng rồi kết duyên hài kịch Pháp với cải lương Nam Bộ, trong công trình sân khấu hỗn hợp nổi tiếng, ra mắt đầu năm 1994, được cả khán giả Pháp, lẫn Việt Nam hoan nghênh rầm rộ: "Tôi có cảm giác mỗi phút giây rảo bước trên đường phố Paris, tôi lại sống lại những giờ phút đọc sách tiếng Pháp, ngày xưa dưới ảnh hưởng rất lớn của văn học sân khấu Pháp từ cha tôi - Thế Lữ".

Nguyễn Ðình Nghi từng nói rằng, Thế Lữ đã di truyền cho ông một tín niệm rất giản dị mà cũng rất quan trọng: Thể loại kịch Việt Nam hiện đại phải biết kể chuyện một cách Việt Nam. Và cách kể chuyện Việt Nam phải tiếp nhận từ tinh hoa của sân khấu truyền thống Việt Nam, nghĩa là kể chuyện theo lối ước lệ, trên tinh thần tả ý, tả thần. Nguyễn Ðình Nghi đã biết ơn cha mình, và biết ơn sân khấu truyền thống như một thứ của kho vô tận cho ông hành nghề đạo diễn.

Rút ra từ sân khấu truyền thống những phương pháp miêu tả để làm giàu sức biểu hiện, sức mô tả hiện thực của sân khấu kịch, là một nguyên tắc ứng xử đạo diễn quan trọng nhất của Nguyễn Ðình Nghi đối với nghề đạo diễn. Ðỉnh cao nhất của nghề đạo diễn của Nguyễn Ðình Nghi là hai vở cuối đời ông: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, và Rừng trúc. Nhất là Hồn Trương Ba, da hàng thịt, giải nhất về vở diễn trong Liên hoan sân khấu kịch quốc tế tại Mátxcơva 1990 và từng lưu diễn cho 20 trường đại học của Mỹ mùa thu 1998. Biết kể chuyện trên sân khấu một cách Việt Nam, nghĩa là biết  "Việt Nam hóa" cách kể chuyện của thể loại kịch phương Tây bằng ngôn ngữ ước lệ của sân khấu truyền thống Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm