Trong điều kiện một nước nhỏ chống lại quân xâm lược của nước lớn, qua kinh nghiệm thành bại của nhiều cuộc kháng chiến, dân tộc Việt Nam đã sớm xác lập tư tưởng quân sự "dĩ đoạn binh chế trường trận" (Trần Quốc Tuấn), "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh" (Nguyễn Trãi), dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân thực hiện chiến tranh nhân dân. Trong tư tưởng chỉ đạo đó, dân tộc Việt Nam tránh quyết chiến với đối phương lúc ưu thế binh lực thuộc về quân xâm lược và sau khi đã thay đổi được tương quan lực lượng, tạo nên lực, thời, thế thuận lợi, quân dân ta tổ chức trận quyết chiến chiến lược giành thắng lợi quyết định trên chiến trường để mở đường dùng biện pháp ngoại giao, chính trị kết thúc chiến tranh. Ðiều đó đã lặp lại nhiều lần như một quy luật trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Chiến thắng Ðiện Biên Phủ là thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Mỗi trận quyết chiến chiến lược trong tương quan lực lượng với đối phương và trong bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước cùng những mối quan hệ khu vực và thế giới, mang những hình thái và lối đánh rất phong phú, đa dạng, biểu thị tập trung nghệ thuật quân sự độc đáo và trí thông minh sáng tạo của dân tộc Việt Nam. So với những trận quyết chiến chiến lược trước đây, trận Ðiện Biên Phủ nổi bật lên hai đặc điểm quan trọng.
Trận Ðiện Biên Phủ là một trận quyết chiến mà cả hai phía đều chấp nhận, biết trước và ra sức chuẩn bị, quyết tâm giành thắng lợi. Trong lịch sử, trận Bạch Ðằng năm 938 chặn đánh đoàn chiến thuyền Nam Hán từ biển vào, trận Bạch Ðằng năm 1288 đánh đoàn thuyền quân Nguyên rút lui về nước, trận Như Nguyệt năm 1077 tiến công vào doanh trại phòng ngự của quân Tống, trận Chi Lăng - Xương Giang năm 1427 đánh đoàn quân tiếp viện của nhà Minh trên đường tiến về thành Ðông Quan (Hà Nội), trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 đánh quân Xiêm trên đường vận động định tiến công vào chỉ huy sở quân Tây Sơn, trận Ngọc Hồi - Ðống Ða năm 1789 đánh thẳng vào hệ thống phòng ngự của quân Thanh ở phía nam và phía tây-nam thành Thăng Long. Trong tất cả những trận đánh trên, dù đánh quân địch trên đường vận động hay trong doanh trại phòng ngự, thời gian chiến đấu có thể ngắn hay dài, quân dân ta luôn luôn giành quyền chủ động chọn không gian và thời gian quyết chiến, bí mật bài binh bố trận, quân địch hoàn toàn bất ngờ và bị động, không hay biết gì về nơi và lúc chúng bị tiến công. Nhưng trận Ðiện Biên Phủ là trận quyết chiến được hình thành dần trong tính toán của cả hai phía tham chiến trong Ðông Xuân 1953 - 1954.
Về phía Việt Nam, từ tháng 8-1953, sau khi địch rút khỏi Nà Sản (8 đến 13-8-1953), Bộ tổng tham mưu trong chủ trương phá kế hoạch tập trung binh lực cơ động của H.Navarre, đã đưa ra kế hoạch tác chiến gồm bốn nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ 4 là tăng cường hoạt động lên hướng Tây Bắc (Lai Châu), Thượng Lào (1). Bộ Chính trị trong phiên họp tháng 10 tại Tỉn Keo (Ðịnh Hóa, Thái Nguyên), đã xem xét kế hoạch tác chiến Ðông Xuân 1953-1954 của Tổng quân ủy, xác định phương châm chung là "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và tác chiến là "đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh, giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng" (2) và thông qua hướng hoạt động lấy Tây Bắc làm chính, các hướng khác là phối hợp. Sau khi địch nhảy dù xuống Ðiện Biên Phủ ngày 20-11, Tổng quân ủy đã nhận định âm mưu của địch và cử ngay cơ quan tiền phương lên Tây Bắc chuẩn bị chiến trường. Ngày 6-12-1953, Tổng quân ủy trình Bộ Chính trị "Phương án tác chiến mùa xuân 1954" gồm 4 phần: I- Tình hình địch và phương hướng chiến dịch, II- Binh lực sử dụng và thời gian tác chiến, III- Nhu cầu nhân lực, vật lực, IV- Kế hoạch đường sá và vận chuyển(3). Phương án đã được Bộ Chính trị thông qua với dự kiến địch "tăng cường thành tập đoàn cứ điểm" thì "trận Ðiện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay" (4). Kế hoạch mở Chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã chính thức được Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị phê duyệt. Hạ tuần tháng 12, Bộ Chính trị chỉ định Ðảng ủy mặt trận và thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch do Ðại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Ðảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch. Như thế là Việt Nam đã quyết định chọn Ðiện Biên Phủ làm trận quyết chiến chiến lược trong Ðông Xuân 1953 - 1954. Chiến dịch được triển khai trong sự phối hợp chặt chẽ với các hướng tác chiến khác trên chiến trường toàn quốc và cả chiến trường Lào, Cam-pu-chia.
Về phía Pháp, được cử làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Ðông Dương thay R.Sa-lăng, ngày 19-5-1953, Ðại tướng H.Navarre đến Sài Gòn. Sau khi đi khảo sát và nghiên cứu kỹ tình hình, H.Navarre đưa ra một kế hoạch tác chiến gồm hai giai đoạn: Trong chiến cục 1953 - 1954, giữ thế phòng thủ, tránh giao chiến lớn ở phía bắc vĩ tuyến 18, tiến công ổn định miền trung và nam Ðông Dương; trong chiến cục 1954 - 1955, sau khi đạt ưu thế quân cơ động sẽ thực hành tiến công ở phía bắc nhằm "tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh" (5).
Nhưng kế hoạch xây dựng khối cơ động tác chiến mạnh của Navarre không thể thực hiện được chủ yếu bởi kế hoạch của Việt Nam buộc địch phân tán lực lượng theo tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ: "Ðịch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn" (6). Nhận thấy Nà Sản không có tác dụng che chở cho Thượng Lào, tháng 8-1953 Navarre rút khỏi tập đoàn cứ điểm này. Cuối tháng 10, Navarre nhận được tin tức cho biết đối phương sẽ tiến công trên hai hướng: một hướng đánh lên vùng núi Bắc Bộ và Thượng Lào, một hướng đánh vào miền trung Ðông Dương mà "không bảo vệ Thượng Lào tức là chấp nhận một thảm họa chung trong vòng vài tháng tới" (7). Vì vậy, Navarre quyết định mở cuộc hành quân Hải Ly (Castor) đánh chiếm Ðiện Biên Phủ với chỉ thị ngày 2-11 và thực hiện từ 20-11-1954 bằng cuộc đổ bộ đường không, dù rằng một số tướng lĩnh Pháp phản đối (8). Ðiện Biên Phủ được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh theo kế hoạch từ 5 đến 6 tiểu đoàn có thể tăng lên 10-12 tiểu đoàn (9). Trong tính toán của Navarre, với Ðiện Biên Phủ, quân Pháp sẽ khống chế vùng Tây Bắc, bảo vệ Thượng Lào và như cái "nhọt hút độc" sẽ thu hút và kìm chân quân chủ lực Việt Minh, tạo ra thế cân bằng trên toàn chiến trường Ðông Dương. Trong chỉ thị ngày 3-12-1953, Tướng Navarre tuyên bố "tôi quyết định chấp nhận giao chiến ở Tây Bắc" (10). Quyền chỉ huy Ðiện Biên Phủ trước giao cho Tướng Gin (chỉ huy quân dù ở Ðông Dương) và từ ngày 8-12 cử Ðại tá Ðờ Cát-xtơ-ri thay thế (sau được thăng lên cấp Thiếu tướng).
Như vậy là với những tầm nhìn chiến lược và cách tính toán khác nhau nhưng cả hai bên tham chiến đến đầu tháng 12-1953 đã chấp nhận trận quyết chiến ở Ðiện Biên Phủ. Ðây là đặc điểm xuất hiện lần đầu tiên trong các trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam. Ðặc điểm này phản ánh tính hiện đại của cuộc chiến tranh khi mà các phương tiện thông tin và do thám hiện đại cho phép mỗi bên có thể theo dõi được những cuộc chuyển quân lớn của đối phương.
Trong điều kiện đó, thắng bại của trận quyết chiến không còn là sự bí mật, bất ngờ của điểm quyết chiến, mà là binh lực và tài thao lược, là cách bài binh bố trận, là nghệ thuật quân sự của mỗi bên hay nói cách giản đơn là cách đánh.
Nghiên cứu trận Ðiện Biên Phủ, ai cũng nhận biết một đặc điểm nổi bật là sự thay đổi cách đánh về phía Việt Nam, chuyển phương châm chỉ đạo tác chiến từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc".
Ngày 26-11-1953, bộ phận tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh lên đường đi Tây Bắc chuẩn bị chiến trường và phương án tác chiến. Bộ phận tiền phương gồm tướng Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu phó và một số cán bộ các cục. Cùng đi còn có đồng chí Mai Gia Sinh, Cố vấn tham mưu của Ðoàn cố vấn quân sự Trung Quốc và Hoàng Minh Phương - Trưởng đoàn cán bộ phiên dịch. Trên đường đi, ngày 30-11 đoàn dừng lại một ngày ở Nà Sản để nghiên cứu tập đoàn cứ điểm do Sa-lăng xây dựng mà cuối năm trước quân ta đánh không thành công. Ngày 6-12, đoàn đến Chỉ huy sở tiền phương đặt ở hang Thẩm Púa. Ngày 8-12 quân địch ở Lai Châu rút bằng đường không và đường bộ về tập trung ở Ðiện Biên Phủ, bị quân ta chặn đánh và truy kích tiêu diệt một bộ phận. Ngày 9-12, bộ phận tham mưu, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình địch ở Ðiện Biên Phủ đang ở trạng thái lâm thời phòng ngự, chưa kịp xây dựng công sự vững chắc và sau khi cân nhắc thuận lợi và khó khăn, đưa ra hai phương án: Ðánh nhanh và đánh chắc để phân tích, và đã chọn phương án "đánh nhanh thắng nhanh", cần tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh hiệp đồng của bộ binh và pháo binh. Ðó là cách đánh mà Cố vấn Mai Gia Sinh gọi là "oa tâm tạng chiến thuật" (chiến thuật moi tim) dùng mũi thọc sâu "như một gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn" (11).
Ngày 5-1-1954, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh và bộ phận nhẹ của Bộ Chỉ huy chiến dịch lên đường ra mặt trận. Sáng 12-1, tại Tuần Giáo, khi nghe tướng Hoàng Văn Thái báo cáo tình hình và phương án tác chiến, Ðại tướng đã nhận thấy "ngay bây giờ đánh nhanh đã khó. Rồi đây hẳn càng khó" và "cần tìm hiểu thêm tình hình" (12). Chiều hôm đó đến chỉ huy sở ở Thẩm Púa, Ðại tướng hội ý ngay Ðảng ủy mặt trận, tất cả đều tán thành chủ trương "đánh nhanh thắng nhanh" và tin rằng có thể giành thắng lợi trong vài ngày đêm. Tối hôm đó, Ðại tướng lại gặp Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, Ðại tá Hoàng Minh Phương làm phiên dịch. Trong trao đổi ý kiến, Cố vấn Vi Quốc Thanh tán đồng phương án đánh sớm, đánh nhanh do cán bộ tham mưu Việt Nam và cố vấn Trung Quốc đã nhất trí đề xuất. Sau khi cân nhắc về những băn khoăn của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, Cố vấn Vi nói: "Nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng quân và củng cố công sự thì không đánh được, ta sẽ bỏ mất thời cơ".
Với tất cả tài năng, kinh nghiệm và sự nhạy bén của một vị Tổng tư lệnh, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận thấy "phương án đánh nhanh thắng nhanh là quá mạo hiểm" (13), nhưng mới đến mặt trận, chưa hội đủ cơ sở thực tế để bác bỏ, trong lúc toàn bộ Ðảng ủy và các cố vấn lại nhất trí với phương án đó. Trước khi ra trận, Bác Hồ trao cho Ðại tướng nhiệm vụ "Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh" và căn dặn: "Tướng quân tại ngoại, giao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Ðảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau" (14). Ðại tướng được Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị tín nhiệm giao nắm quyền lực tập trung về quân sự: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Bí thư Quân ủy T.Ư, Tổng tư lệnh quân đội và trực tiếp làm Bí thư Ðảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Tướng Navarre đã từng nói "tôi phát ghen với tướng Giáp" (15). Nhưng cũng chính vì trọng trách và sự tín nhiệm đó, Ðại tướng đứng trước một tình thế rất khó xử: Biết phương án tác chiến mạo hiểm, ít khả năng thắng lợi, thậm chí có thể thất bại, nhưng lại được Ðảng ủy và cố vấn nhất trí tán thành, quân sĩ đang trong khí thế và quyết tâm cao. Thời gian cũng không cho phép báo cáo xin ý kiến Bác Hồ và Bộ Chính trị (không dám dùng điện đài vì sợ lộ bí mật). Ðại tướng ở vào thế đơn độc và đành phải tạm thời cho triển khai phương án, ngày 14-1 triệu tập hội nghị cán bộ, phổ biến mệnh lệnh chiến đấu với dự kiến trận đánh diễn ra trong 2 ngày 3 đêm, giờ nổ súng định là 17 giờ ngày 20-1. Phương án đánh nhanh coi như được công nhận là chủ trương thống nhất của Ðảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch và các cố vấn Trung Quốc. Trong lúc đó, Ðại tướng chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch và thúc đẩy công việc chuẩn bị mọi mặt, nhất là việc kéo pháo vào trận địa. Ðoạn đường kéo pháo bằng tay vào trận địa khá dài, qua những dốc cao vực thẳm, có dốc cao đến 600, trong lúc máy bay và pháo địch luôn luôn cản trở. Bộ chỉ huy điều động 2 đại đoàn làm nhiệm vụ mở đường, kéo pháo, dự kiến hoàn thành trong 3 đêm. Thế mà sau 7 đêm, pháo vẫn chưa vào vị trí và thời gian nổ súng phải lùi lại 5 ngày tức ngày 25-1. Trong lúc đó, quân địch đã tăng lên 12 tiểu đoàn và một tập đoàn cứ điểm kiên cố đã hình thành. Do một chiến sĩ bị bắt và phát hiện điện đài địch thông báo ngày giờ tiến công của ta nên giờ nổ súng được lùi lại 24 giờ tức ngày 26-1. Sau 11 ngày đêm suy tính, nhất là đêm 25-1 hầu như không chợp mắt, Ðại tướng đi đến quyết định phải thay đổi cách đánh vì địch không còn lâm thời phòng ngự mà đã thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố và phía ta, có nhiều khó khăn chưa được bàn tính kỹ để tìm cách khắc phục.
Sáng 26-1, Ðại tướng cùng Ðại tá Hoàng Minh Phương gặp Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh. Chỉ sau khoảng nửa giờ trao đổi, Cố vấn Vi đã nhất trí với sự phân tích, đánh giá của Ðại tướng và đồng ý hoãn cuộc tiến công, chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc". Ngay sau đó, Ðảng ủy mặt trận được triệu tập để thảo luận về thay đổi phương châm tác chiến. Dĩ nhiên lúc đầu mọi người không tán thành, nhưng khi đặt vấn đề phải bảo đảm "chắc thắng mới đánh" như quyết định của Bộ Chính trị và lời dặn của Bác Hồ thì mọi người mới nhận ra nhiều khó khăn chưa có biện pháp khắc phục mà thực tế 11 ngày đêm chuẩn bị chiến trường đã bộc lộ khá rõ. Trên cơ sở nhất trí đó, Ðại tướng kết luận chuyển phương châm "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc" và ra lệnh toàn mặt trận hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra. Trận quyết chiến Ðiện Biên Phủ được chuẩn bị lại theo phương châm mới và đã đi đến thắng lợi ngày 7-5-1954 tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Ðông Dương với 21 tiểu đoàn phòng ngự trong những trung tâm đề kháng và cứ điểm có hệ thống công sự kiên cố và hỏa lực mạnh.
Về phương diện sử học, từ thay đổi cách đánh ở Ðiện Biên Phủ, có mấy vấn đề sau đây cần đặt ra và làm sáng rõ:
1- Cách "đánh nhanh thắng nhanh" rõ ràng là do bộ phận tham mưu tiền phương trong đó có Cố vấn tham mưu Mai Gia Sinh đề xuất. Cách đánh này dựa trên cơ sở khảo sát "con nhím Nà Sản" và tận dụng thời cơ khi quân địch mới nhảy dù xuống Ðiện Biên Phủ, chưa kịp xây dựng công sự kiên cố, đồng thời phát huy sức mạnh bất ngờ về hỏa pháo của ta. Nhưng phương án tác chiến chưa lường tính hết khả năng tăng cường binh lực và xây dựng trận địa của đối phương cũng như những khó khăn về phương diện chuẩn bị trận địa, chuyển pháo vào vị trí, kinh nghiệm đánh công kiên và hiệp đồng binh chủng bộ binh - pháo binh của ta. Trong khi ta chưa kịp kéo pháo vào trận địa thì địch đã xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố và "con nhím Ðiện Biên Phủ" lớn mạnh hơn "con nhím Nà Sản" nhiều lần. Trong điều kiện đó, phương án "đánh nhanh thắng nhanh" là mạo hiểm và sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng của một trận quyết chiến chiến lược thất bại. Chúng ta thử hình dung điều gì sẽ xảy ra khi những sư đoàn chủ lực tinh nhuệ nhất tập trung về đây bị tiêu diệt, những cố gắng chiến tranh cao nhất của toàn quân, toàn dân bị sụp đổ và cuộc kháng chiến phải làm lại từ đầu. Nhà Việt Nam học người Pháp Gióc-giơ Bua-đa-ren đã từng tham gia cuộc kháng chiến 1945 - 1954, là người đầu tiên nhận ra hậu quả nguy hiểm của lối "đánh nhanh thắng nhanh" trong bài "Tướng Giáp suýt thất bại ở Ðiện Biên Phủ" đăng trên tạp chí Người quan sát mới (Nouvel Observateur) ngày 8-4-1983.
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, có những trận quyết chiến thực hành lối đánh nhanh như hai trận Bạch Ðằng năm 938, 1288, trận Như Nguyệt năm 1077, trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785, chỉ diễn ra trong giới hạn một ngày, trận Ngọc Hồi - Ðống Ða năm 1789 chỉ trong 5 ngày đêm. Nhưng yêu cầu và nguyên tắc cao nhất của trận quyết chiến chiến lược là phải bảo đảm thắng lợi chắc chắn, phải được nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo nhất về mọi mặt. Do tầm quan trọng có ý nghĩa sống còn của cả dân tộc, quyền chỉ huy trận quyết chiến bao giờ cũng giao cho vị Thống soái cao nhất của quân đội như trong các trận trên là Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ.
2- Xoay chuyển cách đánh từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc" là công lao của Ðại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Sớm nhận ra tính mạo hiểm và nguy cơ thất bại của phương án đánh nhanh biểu thị tài năng, sự sáng suốt và nhạy bén của một vị tướng dày dạn kinh nghiệm. Nhưng biết nhẫn nại chờ đợi để hội đủ cơ sở thực tế có sức thuyết phục mọi người, tạo nên sự nhất trí cao của các tướng lĩnh và quân sĩ càng chứng tỏ bản lĩnh, niềm tin chân lý và sự quyết đoán kịp thời, đúng lúc của vị Tổng tư lệnh. Trong hồi ký của mình, Ðại tướng coi đây là "quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy" (16).
Nhưng ở đây có một vấn đề cần xác minh.
Tôi đã từng suy nghĩ, tại sao Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh lúc đầu tán thành phương án đánh nhanh, sau lại nhanh chóng ủng hộ đề xuất thay đổi cách đánh của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp. Ðiều đó chứng tỏ Cố vấn Vi với trình độ quân sự và kinh nghiệm dày dạn của mình, cũng đã phát hiện ra những chỗ sơ hở không bảo đảm chắc thắng của phương án đánh nhanh. Những tài liệu lưu trữ được công bố trên một số sách của Trung Quốc xuất bản gần đây cho phép tôi có thể phân tích và lý giải vấn đề này. Theo tài liệu lưu trữ về phía Trung Quốc thì ngày 21-1, Vi Quốc Thanh điện về Quân ủy T.Ư tình hình địch tăng cường ở Ðiện Biên Phủ và những khó khăn kéo pháo nên ngày tiến công phải lùi lại ngày 26-1. Ngay hôm đó, Quân ủy T.Ư Trung Quốc điện trả lời Vi Quốc Thanh: Ðồng ý hoãn ngày tiến công và căn dặn "không nên sử dụng lực lượng đồng đều trên bốn mặt, mà phải sử dụng biện pháp bao vây chia cắt, tiêu diệt địch từng phần từng phần một" (17). Ngày 24-1, Vi Quốc Thanh lại điện về Quân ủy T.Ư những khó khăn kéo pháo vào trận địa "toàn bộ sư đoàn 312 giúp kéo pháo mà 6 đêm chỉ tiến được 12km, quân đội đã mệt mỏi mà vẫn chưa đưa được toàn bộ pháo vào trận địa bắn như dự định". Ba ngày sau, ngày 27-1, Quân ủy T.Ư trả lời Vi Quốc Thanh: "Ðồng ý với tinh thần của kế hoạch ngày 24-1, đối với việc công kích Ðiện Biên Phủ nên dùng cách bao vây chia cắt, tiêu diệt địch từng phần, từng phần một, trước diệt một phần, sau lại diệt một phần, mỗi lần diệt khoảng trên dưới một tiểu đoàn. Chỉ cần diệt hết bốn, năm tiểu đoàn thì quân địch ở Ðiện Biên Phủ sẽ sinh dao động, có thể trốn về phía nam hoặc tiếp tục tăng viện binh, cả hai tình huống đều có lợi cho ta" (18). Ðó là cách "đánh bóc vỏ" hay "đánh chắc tiến chắc". Ngày 27-1 mới có điện trả lời của Quân ủy T.Ư Trung Quốc, trong lúc đó thì sáng 26-1, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã gặp và trao đổi ý kiến về thay đổi cách đánh với Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh. Chiều hôm đó là giờ nổ súng nên chưa nhận được điện trả lời của Quân ủy T.Ư, Cố vấn Vi "sau giây lát suy nghĩ" đã bày tỏ sự đồng ý với Ðại tướng. Từ thực tế chiến trường và kinh nghiệm từng trải, hai nhà quân sự Việt Nam và Trung Quốc đã sớm đi đến sự thống nhất về thay đổi cách đánh.
3- Chuyển sang phương án "đánh chắc tiến chắc" là trở về với tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chủ tịch và T.Ư Ðảng thể hiện trong Hội nghị lần thứ IV của Ban Chấp hành T.Ư khóa II ngày 25 đến 30-1-1953, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1953 tại Tỉn Keo, Phương án tác chiến Ðông Xuân 1953 - 1954 ngày 6-12-1953 của Tổng quân ủy trình Bộ Chính trị và cũng là trở về với truyền thống quân sự Việt Nam. Trong Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hội nghị T.Ư lần thứ IV đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo: "Ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Ðánh ăn chắc tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại là hết vốn" (19). Bác Hồ đặc biệt căn dặn "phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh". Báo cáo của Tổng quân ủy ngày 6-12-1953, khi địch mới nhảy dù xuống chiếm Ðiện Biên Phủ, đã có những phân tích, dự tính các tình huống phát triển, đưa ra khả năng trận Ðiện Biên Phủ sẽ là trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay và ước tính thời gian chiến đấu độ 45 ngày. Một sự tiên liệu gần như trở thành hiện thực ở Ðiện Biên Phủ.
Như vậy phương châm tác chiến "đánh chắc tiến chắc" đã được xác lập khá sớm và rõ ràng trong sự chỉ đạo của Bác Hồ và T.Ư Ðảng. Tư tưởng và phương châm chỉ đạo đó là sự kế thừa và phát triển tư tưởng và nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc Việt Nam trong tổ chức chiến tranh nhân dân yêu nước chống ngoại xâm của một nước nhỏ chống quân xâm lược của nước lớn.
4- Chiến thắng Ðiện Biên Phủ là đỉnh cao của chiến cục Ðông Xuân 1953 - 1954, là thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Vì vậy những nhân tố thắng lợi của trận Ðiện Biên Phủ cần được xem xét trên nền tảng của toàn bộ cuộc kháng chiến và sự phối hợp của chiến trường cả nước, sự tham gia của toàn quân, toàn dân trên toàn quốc. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ diễn ra trên đất nước Việt Nam, trong sự kế tục của lịch sử Việt Nam, dĩ nhiên sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc được phát huy cao độ giữ vai trò quyết định. Trên cơ sở đó, sự viện trợ của Liên Xô, sự viện trợ và giúp đỡ khá toàn diện của Trung Quốc rất quan trọng và phải kể thêm phong trào ủng hộ của bộ phận tiến bộ trong nhân dân các nước, trong đó có nhân dân Pháp. Jules Roy đã có một nhận xét đầy hình tượng mang phong cách một nhà văn, nhà báo: "Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại Tướng Navarre, mà chính là những chiếc xe đạp Peugeot thồ 200, 300 ký hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm ni-lông. Cái đã đánh bại Tướng Navarre, không phải là phương tiện, mà là sự thông minh và ý chí của đối phương" (20). Trên nền tảng của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, trong phạm vi Chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì sự thay đổi cách đánh là một nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của trận Ðiện Biên Phủ.
................................................
1- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 2000, tr. 23.
2- Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr. 193.
3- Nguyên bản lưu giữ tại Cục lưu trữ T.Ư Ðảng, ký hiệu DV 742, tr. 1/132 - 4/135. Xem Văn kiện Ðảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, T.14, tr. 593 - 598; Ðiện Biên Phủ, văn kiện Ðảng, Nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
4- Văn kiện Ðảng toàn tập, Sđd, T. 14, tr. 594, 595.
5- Henry Navarre: Le temps des Vérités, Palon-Paris 1979; bản dịch: Thời điểm của những sự thật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2004, tr. 93.
6- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr. 26.
7- Henry Navarre: Thời điểm của những sự thật, Sđd, tr. 95-96.
8- Jules Roy: La bataille de Dien Bien Phu, Paris 1963; bản dịch: Trận Ðiện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2004, tr. 469 - 505.
9- Henry Navarre: Thời điểm của những sự thật, Sđd, tr. 146.
10- Jules Roy: Trận Ðiện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Sđd, tr. 522.
11- Hoàng Minh Phương: Nắm ngải cứu trên đầu đồng chí Tổng tư lệnh, Tạp chí Xưa và Nay số 208, 3-2004, tr. 10
12- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr. 94.
13- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr. 96.
14- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr. 66.
15- Henry Navarre: Thời điểm của những sự thật, Sđd, tr. 114.
16- Võ Nguyên Giáp: Ðiện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr. 112
17- Tiền Giang: Cuộc chinh chiến bí mật, ghi chép về đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt chống Pháp, NXB Nhân dân Tứ Xuyên, 1999, tr. 462 - 463
18- Tiền Giang: Cuộc chinh chiến bí mật, ghi chép về đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt chống Pháp, Sđd, tr. 464 - 465.
Tổ biên soạn lịch sử của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc: Sự thật về đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt chống Pháp, NXB Quân giải phóng, Bắc Kinh 1990, tr. 98
19- Văn kiện Ðảng toàn tập, T. IV, Sđd, tr. 59.
20- Jules Roy: Trận Ðiện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Sđd, tr. 449.