Hát mãi khúc quân hành

Bài 3: Sư đoàn của những chiến công anh hùng

Nếu lực lượng biên phòng là tuyến đầu ngày đêm bám trụ từng cột mốc chủ quyền, thì trong thế trận quốc phòng toàn dân, phía sau họ là những sư đoàn chủ lực - lực lượng cơ động chiến lược, sẵn sàng có mặt ở bất cứ nơi nào Tổ quốc cần.

Sư đoàn 316 tham gia diễn tập vòng tổng hợp tại thao trường TB1 Bắc Giang. (Ảnh TUẤN ANH)
Sư đoàn 316 tham gia diễn tập vòng tổng hợp tại thao trường TB1 Bắc Giang. (Ảnh TUẤN ANH)

Trong đội hình ấy, Sư đoàn 316 với tên gọi ban đầu là Đại đoàn 316 được thành lập ngày 1/5/1951 tại Cao Lộc (Lạng Sơn), là một trong những đại đoàn bộ binh chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, biểu tượng tinh nhuệ của Quân khu 2, nổi tiếng với sở trường tác chiến ở địa hình rừng núi hiểm trở.

Suốt hai cuộc kháng chiến, cái tên “316” in đậm trong lịch sử quân sự Việt Nam không chỉ bởi những chiến công vang dội, mà còn bởi sức mạnh được tạo nên từ những chiến sĩ người dân tộc Tày, Nùng, Dao…

Dấu son chói lọi trong lịch sử dân tộc

Buổi sáng cuối năm ở thao trường se lạnh. Tiếng bước chân của đại đội trẻ vang lên đều đặn, gợi nhớ hành trình gần 75 năm qua chưa phút nào thôi nỗ lực của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 316. Những bước chân hôm nay chính là sự tiếp nối dấu chân của thế hệ cha ông từ những năm tháng kháng chiến.

Ngay sau khi thành lập, Đại đoàn 316 đã được tôi luyện qua nhiều trận đánh ác liệt ở Bắc Bộ như Phi Mô, Thủ Độ, Quất Lâm, Đại Giáp, Cầu Ngà, Phố Mới, Nam Sách…, từng bước khẳng định bản lĩnh và sự trưởng thành của đơn vị. Tiêu biểu là trận Lạc Thổ (Bắc Ninh), bộ đội tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn, thu nhiều vũ khí, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ “Thành tích đáng khen”.

Thượng tá Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 316 cho biết: Trong đợt chiến đấu từ cuối năm 1951 đến tháng 4/1952, dù phải đối đầu với hàng chục tiểu đoàn cơ động có máy bay, xe tăng, trọng pháo yểm trợ, Đại đoàn 316 vẫn tiêu diệt hơn 3.900 tên địch, phá hủy 15 xe tăng, 17 xe cơ giới, thu hàng nghìn vũ khí, giải phóng nhiều vùng ở Bắc Ninh, Bắc Giang và mở thông hành lang chiến lược giữa vùng tự do với vùng địch hậu.

Rất nhiều thế hệ người lính hôm nay vẫn còn nhớ Chiến dịch Tây Bắc năm 1952, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của đơn vị. Trong trận Bản Trại-Bản Mo (Phù Yên) địch bố trí hai cứ điểm mạnh, có hơn 200 lính Âu-Phi, công sự bê-tông kiên cố, nhưng sau chưa đầy một giờ chiến đấu, bộ đội ta tiêu diệt toàn bộ quân địch, bắt sống tri châu Phù Yên và quan ba chỉ huy tiểu khu. Chiến thắng ấy đã mở toang cửa ngõ Tây Bắc, giải phóng một vùng rộng lớn từ Nghĩa Lộ-Sơn La đến Quỳnh Nhai-Lai Châu, tạo bàn đạp chiến lược cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bước vào chiến cục Đông Xuân 1953-1954, thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, Đại đoàn 316 được giao là một trong những đơn vị chủ lực trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 13/3/1954, tại cứ điểm Him Lam, Trung đoàn 174 nổ súng mở màn chiến dịch, tiêu diệt cứ điểm mạnh ở hướng Đông Bắc, phá vỡ tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch. Tiếp đó, các trận Độc Lập, Bản Kéo tiếp tục khẳng định sức mạnh hiệp đồng, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch, từng bước bóp nghẹt tập đoàn cứ điểm. Đỉnh cao chiến công của Đại đoàn 316 là trận A1, một trong những trận đánh ác liệt và quyết định nhất của toàn chiến dịch.

Để hiểu sâu hơn về những chiến công ấy, chúng tôi tìm gặp Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm - nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Sư đoàn trưởng 316, vào những ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12. Trong căn nhà vang tiếng cười của những người lính, vị tướng đã trưởng thành từ người lính binh nhì đến sư đoàn trưởng ở Sư đoàn 316, đã nói rằng trận A1 là “trận đánh mà mỗi mét đất giành được đều phải trả bằng xương máu và ý chí không gì lay chuyển của những người lính”.

Từ cuối tháng 3 đến ngày 6/5/1954, cán bộ, chiến sĩ vừa chiến đấu, vừa đào hầm ngầm dưới làn bom pháo dữ dội, vượt qua muôn vàn gian khổ để đưa 1.000 kg bộc phá vào lòng cứ điểm. Đúng 20 giờ 30 phút ngày 6/5, khối bộc phá phát nổ, mở đường cho các đơn vị xung phong đánh giáp lá cà suốt đêm. Đến 4 giờ 30 phút sáng 7/5/1954, quân ta làm chủ hoàn toàn A1, tạo đòn quyết định cho tổng công kích. Chiều ngày 7/5/1954, khi lá cờ “Quyết chiến-Quyết thắng” tung bay trên nóc hầm Đờ Cát, Đại đoàn 316 đã hòa vào bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc: Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành

Sư đoàn 316 cũng là một trong những đơn vị đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Từ năm 1953, nhất là từ năm 1962-1973, Sư đoàn liên tục chiến đấu ở Bắc Lào, trở thành đơn vị làm nhiệm vụ quốc tế sớm nhất và dài nhất của toàn quân. Tại Pa Thí, Nà Khằng, Cánh đồng Chum, Sảm Thông, Long Chẹng… cán bộ, chiến sĩ đã cùng quân dân nước bạn Lào đánh bại nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của địch, lập chiến công vang dội, góp phần củng cố vững chắc tuyến phòng thủ chiến lược Việt-Lào.

Trong thư gửi Quân đội nhân dân Việt Nam và các đơn vị làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, Chủ tịch Xuphanuvong khẳng định: Mối tình Lào-Việt là mối tình thủy chung trong sáng, cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, đẹp hơn trăng rằm và ngát thơm hơn bất cứ đóa hoa nào thơm nhất.

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm nhớ lại: Chiến thắng Buôn Ma Thuột (tháng 3/1975) là trận mở màn quyết định của Chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước ngoặt chiến lược làm sụp đổ tuyến phòng thủ của địch ở miền trung-Tây Nguyên, mở ra thời cơ giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Trong chiến dịch lịch sử ấy, Sư đoàn 316 là lực lượng chủ lực được giao nhiệm vụ đột kích từ các hướng tây bắc-tây nam, đánh thẳng vào những mục tiêu then chốt, nhất là Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, góp phần tiêu diệt lực lượng này và giải phóng Buôn Ma Thuột, đóng góp trực tiếp vào Đại thắng mùa Xuân 1975 - dấu son chói lọi trong lịch sử dân tộc.

Không chỉ ở chiến trường xa, mà ngay trên biên giới phía bắc, mạch nguồn giữ nước của Sư đoàn vẫn luôn tiếp tục tỏa sáng.

Không chỉ ở chiến trường xa, mà ngay trên biên giới phía bắc, mạch nguồn giữ nước của Sư đoàn vẫn luôn tiếp tục tỏa sáng. Những năm 1979 và kéo dài nhiều năm sau đó, cán bộ, chiến sĩ 316 đã chiến đấu kiên cường tại các trận Cầu Đôi-Sa Pa, Phong Thổ-Lai Châu và đặc biệt là Vị Xuyên-Hà Giang. Ở những điểm cao 1509, 685, nơi đá sắc như dao và sương lạnh như cắt, những người lính 316 phải đối mặt với kẻ thù đông đảo và hỏa lực mạnh. Nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, thậm chí còn không kịp biết tên nhau, nhưng máu của họ đã hòa vào đá núi, giữ vững từng tấc đất biên cương.

Giữ nước trong kỷ nguyên số

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm chia sẻ: Quân đội ta phải vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất - ba chức năng lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao phó, nhằm góp phần xây dựng kinh tế-xã hội trong thời bình. Với Sư đoàn 316, đó không chỉ là mệnh lệnh mà là trách nhiệm cụ thể. Năm 1956, đơn vị trở lại Điện Biên, vừa sẵn sàng chiến đấu giúp nước bạn Lào, vừa trực tiếp khôi phục sản xuất; trong đó, Trung đoàn 176 trở thành đơn vị kinh tế tập thể tiêu biểu, đặt nền móng cho Nông trường Quân đội Điện Biên, góp phần hàn gắn hậu quả chiến tranh và xây dựng miền bắc.

Phát huy truyền thống anh hùng, Sư đoàn 316 bước vào thời kỳ mới với sứ mệnh giữ nước trong kỷ nguyên số. Đảng ủy Sư đoàn ban hành nghị quyết chuyên đề về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, quyết tâm đưa trình độ khoa học-công nghệ của đơn vị vào nhóm dẫn đầu Quân khu. Đại tá Bùi Thế Dũng, Sư đoàn trưởng cho biết, từ đầu năm 2025, đơn vị triển khai đồng bộ chuyển đổi số với nhiều mô hình sáng tạo: Phát triển phần mềm quản lý nội bộ, duy trì “giờ công nghệ” hằng tuần, gắn kỹ năng số với thi đua-khen thưởng, xây dựng “nhân lực số” và lan tỏa phong trào “Bình dân học vụ số” tới địa phương. Nhờ đó, Sư đoàn đã hình thành hệ sinh thái số nội bộ, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và sẵn sàng chiến đấu.

Trên thao trường hôm nay, bên cạnh những bước chân dứt khoát và tiếng hô chắc khỏe, có thể thấy hình ảnh của những phòng huấn luyện mô phỏng, những phần mềm điều hành công tác quân sự, các cơ sở dữ liệu điện tử giúp quản lý chiến sĩ chính xác, khoa học... Người lính 316 của thời đại mới, quân nhân số, vẫn giữ nguyên tinh thần “quyết đánh, quyết thắng” của những người đi trước, nhưng mang trong mình tư duy chiến đấu bằng công nghệ, tri thức và khoa học. Từ Lạng Sơn năm 1951 đến Điện Biên, Tây Nguyên, Bắc Lào, biên giới phía bắc, và cho đến hôm nay, mạch nguồn giữ nước của Sư đoàn 316 chưa bao giờ vơi cạn.

“Đó là mạch nguồn của máu và hoa, của nghĩa tình Việt-Lào, của những người lính cầm súng chiến đấu; để hôm nay tiếp nối bằng mạch nguồn của trí tuệ, khoa học và chuyển đổi số. Dòng chảy ấy đang được bồi đắp từng ngày, giúp thế hệ người lính 316 viết tiếp truyền thống 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành bằng trách nhiệm, bản lĩnh và khát vọng hiện đại hóa Quân đội”, Đại tá Lâm Dũng Tiến, Chính ủy Sư đoàn nhấn mạnh.

Từ bầu trời rộng lớn đến phên dậu biên cương, từ những chuyến bay cứu trợ đến bước chân tuần tra và đội hình cơ động chiến lược, những mạch nguồn giữ nước vẫn tiếp tục được trao truyền qua từng thế hệ người lính hôm nay, kết tinh thành sức mạnh giữ vững chủ quyền và bình yên của đất nước.

>> Bài 1: Những cánh bay họa mi trên bầu trời Tổ quốc

>> Bài 2: Khi biên giới sáng đèn

Có thể bạn quan tâm