* Bài 1: Doanh nghiệp khốn đốn vì nợ đọng
Thiếu vốn thanh toán
Theo đại diện Tổng công ty 319, dù Chính phủ không cho phép doanh nghiệp (DN) tự bỏ vốn chuẩn bị đầu tư, thi công dự án khi chưa được bố trí vốn, chỉ tổ chức lựa chọn nhà thầu cho các gói thầu đã được bố trí vốn,… nhưng nhiều dự án đầu tư vẫn được cấp thẩm quyền cho phép triển khai thực hiện khi chưa cân đối được nguồn vốn. Những quy định này vẫn chưa có chế tài để kiểm soát, dẫn đến nhiều công trình, dự án kéo dài 5 đến 10 năm không có vốn để thanh toán dù đã thi công xong, gây thiệt hại cho nhà thầu, trong khi chủ đầu tư không có trách nhiệm đối với những thiệt hại đó.
Mặt khác, do nhu cầu đầu tư lớn cho nên địa phương phê duyệt nhiều dự án, không tính đến khả năng cân đối vốn khiến việc đầu tư dàn trải, phân tán, kế hoạch đầu tư bị "cắt khúc" theo từng năm, giá vật liệu và nhân công biến động kéo theo giá trị hoàn thành dự án vượt tổng mức đầu tư. Chủ đầu tư không có nguồn vốn để chi trả cho các nội dung phát sinh và giá trị vượt tổng mức đầu tư này. Vì thế, tình trạng thi công vượt quá kế hoạch vốn được giao là một trong những nguyên nhân gây nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) lớn và kéo dài. Một số công trình không bảo đảm trình tự, thủ tục đầu tư XDCB dẫn đến không thể thanh toán được, nhiều dự án chưa được phê duyệt, không có trong danh mục đầu tư lại vẫn thực hiện đầu tư; nhiều dự án không nằm trong quy hoạch vẫn tiến hành ký hợp đồng thi công.
Ðó là chưa kể tới sự chiếm dụng vốn do chủ đầu tư cố ý đưa các điều khoản có lợi cho mình vào hợp đồng, hoặc chủ đầu tư "san vốn" cho một số dự án khác. Thậm chí, chủ đầu tư, ban quản lý dự án xây dựng không có đủ năng lực, chuyên môn về lĩnh vực xây dựng, tạo ra rủi ro về quản lý đầu tư xây dựng như chất lượng, tiến độ, khối lượng, giá trị,...
Kiểm điểm, xác định rõ trách nhiệm
Ðể tháo gỡ tình trạng thiếu vốn, nhiều DN đã "tự cứu mình" trước. Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn đã đưa ra một số giải pháp, trong đó đánh giá chất lượng công tác thu hồi công nợ, chủ động đối chiếu công nợ, phân loại công nợ, bám sát các chủ đầu tư và các cơ quan liên quan để phối hợp giải quyết. Ðối với các công trình được ghi kế hoạch vốn thì đẩy nhanh tiến độ thi công, làm đến đâu nghiệm thu đến đó, chú trọng làm tốt công tác hồ sơ thanh toán. Những công trình không có kế hoạch về vốn thì giãn tiến độ hoặc không thi công. Ðiều đáng nói là tuy các giải pháp đưa ra khá quyết liệt nhưng hiệu quả đem lại chưa cao do phụ thuộc vào chủ đầu tư và chính sách của Nhà nước.
Ðại diện Tổng công ty Sông Ðà cho biết, DN xây dựng còn rất vướng mắc trong quá trình quyết toán vốn đầu tư. Việc chủ đầu tư giữ lại tiền của nhà thầu thi công để chờ phê duyệt quyết toán vốn đầu tư tại các dự án sử dụng vốn Nhà nước có một số nội dung bất cập, như đối với một số công trình lớn, trọng điểm quốc gia như Thủy điện Sơn La, Thủy điện Lai Châu,... thì giá trị chủ đầu tư giữ lại của nhà thầu rất lớn, khiến giá trị dở dang, công nợ của nhà thầu thi công cũng rất lớn dẫn đến thiếu hụt vốn phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ðơn cử, Thủy điện Sơn La có những giai đoạn giá trị giữ lại khoảng 400 tỷ đồng; Thủy điện Lai Châu giá trị giữ lại hiện nay khoảng gần 400 tỷ đồng; Thủy điện Hủa Na khoảng 80 tỷ đồng; công trình Nhà Quốc hội khoảng hơn 70 tỷ đồng,... Thời gian phê duyệt quyết toán kéo dài, không xác định rõ ràng và thường vượt quá thời gian quy định do chờ các thủ tục kiểm toán, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư của cấp có thẩm quyền đối với chủ đầu tư, vì vậy nợ đọng của nhà thầu bị kéo dài, không thanh lý được hợp đồng và không giải quyết dứt điểm được công nợ.

Ở nhiều địa phương, tình trạng nợ đọng vốn xây dựng cơ bản diễn ra phổ biến thời gian gần đây.
Trong ảnh: Công trình thủy lợi Định Bình, huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định).
Ảnh: PHẠM TIẾN SỸ
Trong khi đó, đối với các dự án không sử dụng vốn Nhà nước, nhất là các dự án ở nước ngoài thực hiện theo hình thức đấu thầu quốc tế thì nhà thầu thi công không có trách nhiệm đối với thủ tục phê duyệt quyết toán vốn đầu tư của chủ đầu tư, mà chỉ hoàn thành nghĩa vụ bảo hành là có thể giải quyết dứt điểm công nợ và thanh lý hợp đồng. Như vậy, việc gắn trách nhiệm của nhà thầu thi công với chủ đầu tư trong vấn đề phê duyệt quyết toán vốn đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn Nhà nước hoặc Nhà nước bảo lãnh vay vốn là chưa phù hợp thông lệ quốc tế, làm cho tình trạng dở dang công nợ của nhà thầu lớn, kéo dài, không thanh lý được hợp đồng. Nhà thầu phụ thuộc vào quyết định của cơ quan thẩm quyền trong quá trình phê duyệt quyết toán vốn đầu tư của chủ đầu tư, đồng thời gây khó khăn cho nhà thầu quốc tế khi tham gia thi công các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Về vướng mắc trong quyết toán dự án hoàn thành, Phó Vụ trưởng Ðầu tư (Bộ Tài chính) Lê Tuấn Anh cho biết, cuối tháng 6-2017, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ về tình hình xử lý tình trạng tồn đọng quyết toán các dự án hoàn thành từ năm 2005 đến năm 2014 do không đủ hồ sơ quyết toán. Theo đó, hiện còn hơn 1.100 dự án tồn đọng quyết toán do không đủ hồ sơ quyết toán cần có biện pháp xử lý. Ðây là số còn tồn đọng sau khi đã xử lý được hơn 3.000 dự án tồn đọng quyết toán, trong đó, 11 bộ, ngành và 23 địa phương sau khi thực hiện các nội dung hướng dẫn của Bộ Tài chính đã chủ động xử lý quyết toán hết các dự án tồn đọng. Ngay trong đề xuất của các bộ, ngành, địa phương, hầu hết đều đề xuất cần nghiên cứu tăng cường các chế tài giám sát, phạt đối với các chủ đầu tư, nhà thầu thi công nhằm tăng cường trách nhiệm trong lập hồ sơ quyết toán và thực hiện quyết toán.
Xử lý nợ đọng XDCB là một nội dung quan trọng của quá trình tái cơ cấu đầu tư công và lập lại kỷ cương trong đầu tư XDCB; là một trong các giải pháp để ổn định tài chính vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính vì vậy, cần thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp, trước hết là giải quyết triệt để vấn đề đầu tư dàn trải - nguyên nhân chính khiến tình trạng nợ đọng trong đầu tư XDCB lớn và ngày càng trầm trọng, vượt tầm kiểm soát.
Việc xác định rõ nguồn thu và cân đối thu, chi NSNN trước khi phê duyệt dự án là vấn đề thuộc về chủ đầu tư Nhà nước, đồng thời chủ đầu tư Nhà nước phải bảo đảm nguồn tài chính cho dự án sau khi phê duyệt dự án. Không những thế, cần có quy định trả lãi do chậm thanh toán cho DN với mức lãi suất cố định (cao hơn mức lãi suất thị trường) trong trường hợp DN bị chậm thanh toán quá ba tháng, kỷ luật nghiêm các tổ chức, cá nhân trong việc chậm thanh toán vốn XDCB, làm phát sinh thêm nợ.
Ngoài ra, nợ đọng XDCB là một mắt xích quan trọng trong việc hình thành nợ xấu, xử lý triệt để nợ đọng là cách ngăn chặn và xử lý nợ xấu hiệu quả. Theo đó, cần có cơ chế để các DN mua bán nợ tham gia xử lý nợ đọng XDCB. Trên thị trường tài chính hiện nay, chuyển nợ thành cổ phần đang là một công cụ hiệu quả và đóng vai trò như một biện pháp xử lý nợ. Tại các đơn vị nhà nước có số dư nợ đọng lớn, khi cổ phần hóa cần tạo điều kiện ưu tiên cho các DN tham gia chuyển đổi nợ thành vốn góp.
Lâu nay, các quy định pháp luật dường như “nương nhẹ” chủ đầu tư và chưa có các chế tài đủ mạnh cho nên những quy định hay chỉ đạo của Chính phủ chưa được tuân thủ, vì thế cần có chế tài xử lý nghiêm chủ đầu tư. Để tăng trách nhiệm của chủ đầu tư, cần bổ sung cơ chế chủ đầu tư bảo lãnh vốn thanh toán trong Luật Đấu thầu. Cụ thể, khi giá trị khối lượng gói thầu còn lại từ 20 đến 30% (tùy theo quy mô gói thầu, hình thức thanh toán gói thầu) chủ đầu tư phải thực hiện thủ tục bảo lãnh vốn thanh toán. DƯƠNG VĂN CẬN Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xây dựng Việt Nam |
(★) Xem Báo Nhân Dân số ra ngày 1-8-2017.