Tác dụng: Chữa ỉa chảy, lỵ lâu ngày, băng lậu, khí hư.
Cách dùng: Dùng bên trong: giã lấy nước hoặc đốt tồn tính tán bột.
Kiêng kỵ: Người nhiều đờm, phổi yếu cẩn thận khi dùng. Không nên ăn cùng các loại cá biển.
Chữa trị:
1. Kiết lỵ lâu ngày. Thạch lựu chua một quả, xẻ làm nhiều miếng, tất cả đem đốt cháy, để hơi bay hết, lấy những phần không cháy. Cho vào bát đậy nắp một lúc, giã nhuyễn. Mỗi ngày trước khi uống dùng một miếng thạch lựu chua thêm 250 ml nước, đun sôi, thêm chín gam thạch lựu giã trên hòa vào uống. Vỏ thạch lựu, sơn tra mỗi loại 30 gam. Sắc lấy nước uống.
2. Ðái dắt (són). Hai quả thạch lựu (đốt cháy, nghiền nhỏ). Lấy 1.000 ml nước cho vào 90 gam bách bạch bì nấu còn 700 ml, bỏ bã, mỗi ngày uống 50 ml thêm vào sáu gam tro thạch lựu, uống trước bữa ăn.
3. Tiêu hóa không tốt: Thạch lựu chua một quả, nhai kỹ cả hạt rồi nuốt.
4. Chữa giun sán: Vỏ thạch lựu, cau, mỗi loại bằng nhau. Nghiền vụn, mỗi ngày uống 6 gam (trẻ em lượng ít hơn), mỗi ngày hai lần, uống liền hai ngày. Hoặc chỉ dùng vỏ thạch lựu 50 gam. Sắc lấy nước chia làm hai lần uống.
5. Viêm tai giữa: Vỏ thạch lựu lượng vừa đủ, sao vàng tán nhỏ, sau khi làm sạch tai, rắc vào trong tai, mỗi ngày một lần, dùng nhiều lần cho đến khi lành.
6. Viêm khoang miệng, loét niêm mạc: Thạch lựu tươi một, hai quả, lấy hạt giã nát, thêm nước sôi vào ngâm rồi lọc, đợi nguội, một ngày ngậm 8 - 10 lần.