"Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa đổi

LTS - Ngày 28-11 vừa qua, tại Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp này. Bắt đầu từ số báo ra hôm nay, Báo Nhân Dân mở chuyên mục: Tìm hiểu Hiến pháp sửa đổi, giới thiệu cùng bạn đọc những bài viết về những điểm mới, những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

"Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" đã được trang trọng ghi nhận tại Ðiều 2 Hiến pháp sửa đổi vừa được Quốc hội khóa XIII Kỳ họp thứ sáu thông qua. Ðây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền nhân dân, khẳng định ở "Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ" (Ðiều 2). Tuy nhiên, so với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi có những nội dung mới, thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vấn đề "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".

Trước hết, "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" quy định ở Ðiều 2 Hiến pháp sửa đổi là một quy định nền tảng chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích và sức mạnh của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở nhân dân. Nguyên lý đó được quy định trong tất cả các Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta. Tuy nhiên, điểm mới so với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp tư tưởng "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Bởi Hiến pháp sửa đổi quan niệm nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Thông qua Hiến pháp, nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, không những Ðiều 2 quy định nội dung nói trên mà còn rất nhiều điều thể hiện sâu sắc và nhất quán tư tưởng đề cao chủ quyền nhân dân. Ngay từ lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi đã long trọng tuyên bố nhân dân Việt Nam là chủ thể "xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này" đến việc bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Ðiều 6), bằng biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Ðiều 29 và Ðiều 120). Ðảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội mà còn phải "gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân không những đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân mà Hiến pháp sửa đổi lần này còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Ðiều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động còn đóng vai trò "tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước..." (Ðiều 10). Những tư duy chính trị pháp lý mới đó, xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân".

Hai là, xuất phát từ bản chất của nhà nước ta "là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân" (khoản 1 Ðiều 2). Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Ðó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3 Ðiều 2). Ðây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi bổ sung năm 2011) cũng nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ðể kiểm soát được quyền lực nhà nước đòi hỏi phải hình thành cơ chế bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước, giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và trong nội bộ mỗi quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bao gồm kiểm soát của nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Với nhận thức đó, kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các chương của Hiến pháp sửa đổi, đặc biệt là trong các chương về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát. Trong các chương này của Hiến pháp sửa đổi đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Ðó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân đánh giá, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Ðây là cơ sở Hiến định để sau này các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước sẽ cụ thể hóa cơ chế đó.

Ba là, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta thuật ngữ quyền con người được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992. Ðó là bước phát triển về quan niệm và nhận thức lý luận. Tuy nhiên, cách thể hiện các quyền con người, và quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ và sâu sắc quan niệm về chủ quyền nhân dân. Với triết lý nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến: quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp sửa đổi trang trọng tuyên bố sau chương I: Chế độ chính trị. Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta khẳng định các nguyên tắc: "Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" (Ðiều 14). Ðây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, hạn chế sự tùy tiện cắt xén từ phía Nhà nước. Ðồng thời là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Không có tư duy đề cao chủ quyền nhân dân, không thể có các quy định nền tảng đó của Hiến pháp sửa đổi.

Bốn là, với nhận thức nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, Hiến pháp sửa đổi đã thừa nhận nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Phương tiện để nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình, đó là thực hành quyền lập hiến. Bằng quyền lập hiến của mình, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Theo đó, có thể thấy rằng, quyền lập hiến là quyền lực tối cao so với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều khởi xướng từ quyền lập hiến. Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định: "Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp" (Ðiều 83). Quy định này không thống nhất với Ðiều 2 của Hiến pháp: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bởi Hiến pháp là bản văn thể hiện quyền lực nhà nước cao nhất. Vì thế, trong nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước thuộc về ai, chủ thể đó có quyền lập hiến và khi nhân dân có quyền lập hiến thì nhân dân trở thành chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã quy định: "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến..." (Ðiều 69), không quy định "Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến". Ðồng thời, Quốc hội được Hiến pháp (tức là nhân dân) giao cho một số quyền của quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định (Ðiều 120).

Năm là, để phản ánh một giai đoạn mới của việc đề cao chủ quyền nhân dân, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện một cách sâu sắc sự hòa hợp dân tộc, sự hài hòa về lợi ích và sự đồng thuận xã hội nhằm tạo nên sức mạnh để phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính trị, kinh tế đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới. Theo đó, Hiến pháp sửa đổi không chỉ có các chủ thể như nhân dân, dân tộc luôn luôn là những chủ thể mở đầu và xuyên suốt mà còn có những chủ thể cụ thể như: nhà khoa học, nhân tài, người khuyết tật, người nghèo, người cao tuổi, người có hoàn cảnh khó khăn, doanh nhân, doanh nghiệp. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi không chỉ ghi nhận lợi ích của nhân dân, dân tộc nói chung mà còn thể hiện lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi còn thể chế hóa những giá trị xã hội được toàn xã hội và nhân dân ta thừa nhận và chia sẻ, các giá trị như tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền, công khai, minh bạch... đã được ghi nhận trong nhiều điều khoản của Hiến pháp sửa đổi. Ðồng thời trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước thương nòi, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau... Những truyền thống và là các giá trị quý báu này đều được thể hiện thấm đượm trong các chương quy định về kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường và bảo vệ Tổ quốc.

GS, TS TRẦN NGỌC ÐƯỜNG

Viện Nghiên cứu lập pháp