Ai đã một lần đến huyện Cần Giờ sau ngày giải phóng (30-4-1975), hôm nay có dịp trở lại, sẽ không khỏi bất ngờ trước sự đổi thay của một vùng đất chết năm nào do chất độc hóa học và bom, đạn của kẻ thù tàn phá. Thời ấy Cần Giờ là chiến khu cách mạng rừng Sác.
Bác Nguyễn Hữu Hùng, ở xã Lý Nhơn (Cần Giờ), một nông dân đã ngoài 60 tuổi, một trong những lão nông giỏi nuôi tôm sú của huyện, có nước da ngăm đen của người dân miền biển, lanh lẹ: Chú Hai biết không, cách đây chừng 15 năm, đất Cần Giờ cho chẳng ai lấy. Ấy thế mà giờ thì đất ở đây là vàng, vàng SJC kia đó. Không ít bà con ở nội thành ra đây tậu đất lập trang trại nuôi tôm. Tôi hỏi:
- Nhà bác có bao nhiêu người, nuôi tôm nhiều không, đời sống ra sao? Bác Tư Hùng kể một mạch như khoe:
- Chẳng giấu gì chú Hai, nhà đông con, nhưng đứa nào cũng lập gia đình cả. Trước đây đời sống quả có khó khăn thật, nhưng nay thì cả bốn đứa (cả trai, gái) gia đình nào cũng khá cả rồi, đều nhờ nuôi tôm đó. Tui hiện nay chỉ còn hai vợ chồng và hai đứa sau. Cả nhà có ba lao động (con út vừa đi học, vừa phụ giúp), với ba công ruộng (ba sào) trước trồng lúa bấp bênh, nay đã chuyển sang nuôi tôm. Mấy năm nay liên tục trúng mùa. Tôm thu hoạch xong đem bán ở Trung tâm thủy sản Cần Giờ, đặt ngay ở xã bên, thuận tiện lắm, không bị tư thương ép giá. Gia đình cũng đã có của ăn, của để, vừa mua thêm được chiếc xe máy và đầu tư cho đứa út ăn học. Dự tính tới đây tui sẽ xây lại cái nhà cho khang trang hơn, để theo kịp với phong trào xóa nhà tranh tre mái lá, do huyện phát động.
Chánh Văn phòng UBND huyện Hai Vũ đưa chúng tôi đi thăm những mô hình nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp, luân canh trên ruộng lúa, ruộng muối. Ở đâu bà con cũng hồ hởi, phấn khởi. Vụ nuôi tôm năm 2003, toàn huyện đã có hơn 2.380 hộ dân nuôi tôm, tổng diện tích mặt nước hơn 2.240 ha, thu hơn 4.500 tấn tôm thương phẩm, đạt giá trị gần 274 tỷ đồng. Bình quân một ha mặt nước nuôi tôm đã tạo ra giá trị hơn 122 triệu đồng/năm. Người nông dân thu lãi từ nuôi tôm gấp 40 lần trên cùng diện tích (ha) so với trồng lúa trước đây. Qua 5 năm (1999-2003) thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Cần Giờ, đã tạo cơ hội, điều kiện cho người dân ở vùng đất nhiễm mặn đầu tư phát triển sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Ðất đai ở Cần Giờ được sử dụng ngày càng có hiệu quả. Hàng nghìn ha đất nông nghiệp những năm trước đây để hoang hóa nay đã tìm được mô hình sản xuất thích hợp, góp phần tăng thu nhập cho người dân. Sau ngày giải phóng, ở Cần Giờ có gần 50% số hộ dân thuộc diện đói, nghèo (chuẩn nghèo ở khu vực ngoại thành TP Hồ Chí Minh giai đoạn một của chương trình xóa đói, giảm nghèo là thu nhập 2,5 triệu đồng/người/năm). Ðến cuối năm 2003, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn gần 1,5% trên tổng số hơn 13 nghìn hộ dân. Huyện phấn đấu cuối năm 2004 sẽ xóa hết hộ nghèo; tiếp tục chuyển sang giai đoạn hai của chương trình xóa đói, giảm nghèo với chuẩn nghèo cao hơn (3,5 triệu đồng/người/năm). Ðồng chí Hai Vũ nhận xét: Nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đời sống người dân Cần Giờ ổn định hơn. Ðó cũng là nguyên nhân để huyện ngăn chặn được nạn phá rừng. Nghề nuôi tôm ở Cần Giờ càng được khuyến khích phát triển. Ðến nay, chỉ tính ở bốn xã phía bắc huyện, đã có 11 trại sản xuất tôm giống, 38 trại thuần dưỡng, 61 cơ sở kinh doanh thức ăn, vật nuôi tôm. Trung tâm giao dịch thủy sản của thành phố đặt tại Cần Giờ đã đáp ứng nhu cầu mua, bán của người sản xuất và người kinh doanh. TP Hồ Chí Minh vừa đầu tư hơn 66 tỷ đồng để xây dựng 22 công trình thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản ở bốn xã này. Ngoài nuôi trồng thủy sản, kinh tế biển của Cần Giờ còn có đánh bắt, chế biến; các dịch vụ cảng biển; đóng mới, sửa chữa tàu thuyền đang ngày một lớn mạnh.
Trong tổng diện tích tự nhiên hơn 70 nghìn ha, rừng Sác hiện có hơn 38 nghìn ha rừng trồng và tái sinh sau một phần tư thế kỷ (1978-2003), cũng là một thế mạnh về nguồn lợi kinh tế của huyện. Rừng Sác đã góp phần tái tạo và cân bằng hệ sinh thái môi trường trên vùng đất ngập mặn nặng ở phía đông nam TP Hồ Chí Minh. Nó tạo ra môi trường sống thích hợp cho nhiều loài động vật đến cư ngụ, sinh sôi phát triển. Rừng ngập mặn Cần Giờ hiện nay (và cả trong tương lai) không còn mang ý nghĩa thuần túy kinh tế, trực tiếp đem lại nguồn lâm sản lớn, mà còn là nguồn lợi vô giá về môi trường sinh thái, là cảnh quan thiên nhiên động thực vật, sông nước... Cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, khu đô thị mới, rừng Sác đang được bảo vệ, tôn tạo trong khuôn khổ một khu rừng đặc dụng, phòng hộ, là khu dự trữ sinh quyển, là một mẫu chuẩn mực về rừng ngập mặn nhiệt đới đóng góp quan trọng cho thế giới về chương trình bảo tồn đa dạng sinh học, rất có ý nghĩa khi rừng, đất ngập nước đang đứng trước nguy cơ ngày càng bị thu hẹp trên toàn cầu. Rừng ngập mặn Cần Giờ đã được Ủy ban quốc tế về chương trình con người và sinh quyển của UNESCO quyết định công nhận là "Khu dự trữ sinh quyển" đầu tiên của Việt Nam, nằm trong mạng lưới 368 "Khu dự trữ sinh quyển" của thế giới hiện nay. Quy hoạch đầu tư, phát triển, khai thác du lịch sinh thái Cần Giờ (sinh thái rừng ngập mặn, sinh thái biển, văn hóa, lịch sử...) đã được UBND thành phố phê duyệt và triển khai. Con đường trải nhựa dài gần 40 km nối từ đầu huyện đến cuối huyện, chạy giữa bạt ngàn mầu xanh của rừng đước đang thì sung sức, cũng đang được mở rộng gấp hai lần. Phà Bình Khánh nối hai bờ sông Nhà Bè nổi tiếng với những chiến tích anh hùng đánh chìm tàu chiến địch năm xưa, đang được tăng cường phương tiện, phục vụ 24/24 giờ để bảo đảm thông thương gần gũi hơn giữa nội thành với huyện đảo. Cầu Dần xây dài hơn 380 m với bốn làn xe thông qua sông Soài Rạp, là một trong những công trình nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng đất, vùng biển Cần Giờ. Mới sáu tháng trước đây, thị trấn trẻ Cần Thanh bên bờ Biển Ðông được thành lập thể hiện sự phát triển nhanh của huyện đảo.
Tuy cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng huyện đảo Cần Giờ hằng năm đón gần 100 nghìn lượt du khách trong nước và nước ngoài. Vào dịp cuối tuần, lễ hội, người dân thành phố đến nghỉ dưỡng ở Cần Giờ thật đông vui. Các chương trình đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội ở đây đang được đẩy nhanh tốc độ xây dựng; trước hết là giao thông, điện, nước, viễn thông, nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí, tham quan, tắm biển, nghỉ dưỡng... để kịp đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân thành phố và du khách. Những ngày tháng 4 lịch sử này, ở Cần Giờ chúng tôi thấy không khí lao động khẩn trương trên các ruộng tôm, ruộng muối, ở những đoàn tàu khai thác, đánh bắt thủy, hải sản trên sông, trên biển...