Kẽm tham gia vào các hoạt động của trên 300 enzym trong các phản ứng sinh học quan trọng, trong đó có các enzym tiêu hóa, và đặc biệt là các enzym cần thiết cho sự tổng hợp protein, acid nucleic cũng như sự tổng hợp, bài tiết và hoạt động của nhiều hormon tăng trưởng quan trọng như GH, IGF-1, testosteron, insulin, thymulin. Do đó, kẽm cần thiết cho việc phiên mã gien, sinh sản, tái tạo và nhân đôi tế bào; cần cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của các chức năng về miễn dịch, tiêu hóa, não, nội tiết, xương, cơ, sự trưởng thành giới tính cũng như chống oxyt hóa. Thiếu kẽm gây ra tình trạng suy giảm tiêu thụ năng lượng nên thường kết hợp với thiếu năng lượng và nhiều dưỡng chất khác…
Nguyên nhân thiếu kẽm
Theo tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thanh Danh - Trung tâm Dinh dưỡng TP Hồ Chí Minh, nguyên nhân dẫn đến thiếu kẽm thường do: Tăng nhu cầu về kẽm nhưng không được đáp ứng: trẻ sinh ra nhẹ cân, bệnh còi xương, các thời kỳ tăng trưởng nhanh; người lớn trong giai đoạn thai nghén, cho con bú, dưỡng bệnh.
Giảm cung cấp hoặc thiếu kẽm trong khẩu phần: chế độ ăn thiếu cân bằng, thiếu đạm động vật hoặc kiêng ăn, ăn chay trường, ăn kham khổ, nuôi ăn qua đường tĩnh mạch kéo dài.
Tiêu hóa hoặc hấp thụ kém (trong bệnh tiêu chảy mạn tính, viêm ruột, hội chứng ruột ngắn (cắt bỏ ruột non), điều trị thiếu sắt kéo dài.
Mất kẽm do tiêu chảy cấp, bỏng, gãy xương, xuất huyết, ra mồ hôi, hội chứng thận hư, thiếu máu huyết tán, chấn thương, phẫu thuật, dùng lâu dài thuốc lợi tiểu, dẫn lưu hoặc rò rỉ phần ruột trên…
Biểu hiện lâm sàng
Thiếu kẽm nhẹ và vừa là tình trạng khá phổ biến. Theo TS Nguyễn Thanh Danh, tình trạng này do ăn uống kém kết hợp với các rối loạn có hại khác. Có thể nhận thấy trên một số biểu hiện cụ thể sau:
Thiếu dinh dưỡng: Chậm tăng trưởng, suy dinh dưỡng nhẹ và vừa, chậm tăng trưởng chiều cao, giảm tiết sữa và các bệnh trầm trọng.
Rối loạn tiêu hóa và chuyển hóa: Trẻ có tình trạng suy giảm tiêu thụ năng lượng như chán ăn hoặc giảm ăn, giảm bú, không ăn thịt cá, chậm tiêu, táo bón nhẹ; buồn nôn và nôn kéo dài ở trẻ, buồn nôn và nôn (nghén) ở phụ nữ mang thai.
Rối loạn tâm - thần kinh: Rối loạn giấc ngủ (trằn trọc khó ngủ, mất ngủ), thức giấc nhiều lần trong đêm, khóc đêm kéo dài. Suy nhược thần kinh (đau đầu, thần kinh dễ bị kích thích, giảm trí nhớ…). Rối loạn cảm xúc (thờ ơ, lãnh đạm, trầm cảm, thay đổi tính tình). Suy yếu hoạt động của não, mơ màng chậm chạp, hoang tưởng, mất điều hòa lời nói, rối loạn vị giác và khứu giác, khuyết tật, bại não, chậm phát triển tâm thần vận động...
Suy giảm khả năng miễn dịch: Nhiễm trùng tái diễn ở đường hô hấp (viêm mũi họng, viêm phế quản tái đi tái lại, viêm đường tiêu hóa, viêm da, mụn bỏng, mụn mủ, viêm niêm mạc)…
Tổn thương biểu mô: khô da, viêm da vùng mặt trước hai chi dưới, nám da, bong da, dầy sừng và nứt gót da hai bên, viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi, vết thương lâu lành, dị ứng. Loạn dưỡng móng, viêm mé móng, tóc giòn dễ gãy, hói tóc.
Tổn thương mắt: sợ ánh sáng, mất khả năng thích nghi với bóng tối, mù đêm, quáng gà, khô mắt, loét giác mạc.
Thiếu kẽm nặng biểu hiện đặc trưng bởi các tổn thương điển hình: viêm da, dầy sừng, sạm và bong da mặt ngoài hai cẳng chân (vẩy cá), hói, loạn dưỡng móng (móng nhăn, có vệt trắng, chậm mọc), khô mắt. Viêm quanh hậu môn, âm hộ, tiêu chảy. Tăng nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng, gây ra nhiễm trùng tái diễn. Kích thích thần kinh, rối loạn nhận thức, mắc chứng ngủ lịm, chậm phát triển tâm thần vận động. Chậm phát triển giới tính, giảm năng tuyến sinh dục, ít tinh trùng, bệnh bất lực. Suy dinh dưỡng nặng, chứng lùn...
Các trường hợp tăng nguy cơ thiếu kẽm: Cần bổ sung kẽm vào chế độ ăn cho các trường hợp: tăng nhu cầu về kẽm; giảm tiêu hóa hoặc hấp thụ kẽm; tăng mất kẽm; các bệnh bẩm sinh hoặc mạn tính gây thiếu kẽm. Stress liên tục, tiểu đường, hội chứng Down, bệnh hồng cầu hình liềm, vẩy nến, dị ứng, suy gan, nghiện rượu, xơ gan do rượu, viêm gan cấp, bệnh thận mạn tính, suy tụy, bệnh máu ác tính, nhiễm trùng mạn tính (lao, AIDS…). Trẻ khuyết tật kèm thiếu dinh dưỡng như bại não, sụt cân, cơ teo nhão, albumin máu thấp, các bệnh nặng (phẫu thuật, chấn thương…).
Phòng và trị bệnh
Khi ở vào các trường hợp nói trên, cần đến bác sĩ chuyên khoa để khám và được chỉ định điều trị. Để phòng chống thiếu kẽm, cần chọn thức ăn giàu kẽm hoặc có bổ sung kẽm. Phòng chống thiếu kẽm cho trẻ phải được quan tâm cùng với phòng chống thiếu kẽm cho các bà mẹ từ lúc mang thai (khi có các biểu hiện nghén, biếng ăn, giảm ăn, bào thai chậm tăng trưởng). Nuôi con bằng sữa mẹ (không cai sữa sớm trước 12 tháng). Sau 4-6 tháng do bé phát triển nhanh và nhu cầu tăng, nếu thiếu sữa mẹ, phải cho bú sữa bò. Cần đưa thêm kẽm qua thứ ăn dặm hay bổ sung kẽm bằng đường uống (liều 5mgZn/ngày). Trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5kg phải bổ sung kẽm từ tháng thứ hai sau sinh. Cho trẻ ăn đầy đủ và đa dạng các loại thực phẩm, nhất là thức ăn có nguồn gốc động vật (thịt, cá, trứng, sữa, hải sản, nhộng tằm, thịt bò, thịt cóc… (thịt cóc phải làm thật kỹ, bỏ hết ruột, gan, trứng và da). Phòng chống các bệnh nhiễm trùng. Cho trẻ ăn đầy đủ trong và sau khi bị bệnh nhiễm trùng, tiêu chảy…